Hoàng Tuấn Công
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng Mừng thọ GS Vũ Khiêu |
Sơn Hà
Linh Khí Tại
Kim Cổ Nhất Hiền Nhân
Kim Cổ Nhất Hiền Nhân
Xin anh cho biết câu
đối này có chỉnh không? Hình như sai luật đối? Về nghĩa có vẻ hơi bị đề cao quá
phải không anh?
Nhân đây cũng đề nghị
anh cho biết ý nghĩa đôi câu đối “Triết
gia trong cách mạng, Nghệ sĩ giữa anh hùng” mà Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng
từng tặng GS Vũ Khiêu.
Mong anh cắt nghĩa thấu
đáo. Cảm ơn anh nhiều.
HTC: Cảm ơn ông Hoàng Minh Tuyển đã quan tâm đến chuyện chữ nghĩa của
Tuấn Công Thư phòng.
Thưa ông, thú thực ban đầu chúng tôi cũng không tin có một đôi
câu đối như vậy tặng GS Vũ Khiêu. Sau khi tìm hiểu mới thấy báo chí có đưa tin chính thức, kèm ảnh với lời chú
thích “Ngày
17/9, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đến tặng hoa, chúc mừng Thượng thọ Giáo sư Vũ
Khiêu. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tặng Giáo sư Vũ Khiêu câu đối "Sơn Hà
Linh Khí Tại - Kim Cổ Nhất Hiền Nhân". Ảnh: Đức Tám – TTXVN -Thể thao văn hóa.vn).
Vì
ông yêu cầu cắt nghĩa “thấu đáo” nên
chúng tôi cũng xin trả lời cặn kẽ như sau:
-Về mặt hình thức: đây là bức Trung
đường liên (中堂聯).
Tức hình thức câu đối viết vào một tấm biển lớn hình vuông hoặc chữ nhật, đặt ở
vị trí trang trọng giữa phòng khách, (phân biệt với "Doanh liên" 楹聯 -câu đối treo hai bên cột trụ). Xem ảnh thấy rõ phía dưới bức Trung đường liên là tượng bán
thân của GS Vũ Khiêu. Như vậy, đôi dòng chữ "Sơn Hà Linh Khí Tại - Kim Cổ Nhất Hiền Nhân" giống như lời đề từ, lời bình cho bức
tượng cụ Vũ Khiêu vậy.
Chúng
tôi gọi Trung đường liên là căn cứ vào hình thức trình bày. Nhưng,
xét đến thể loại, có lẽ chỉ nên gọi đây là bức Trung đường (dạng
bức trướng) thì đúng hơn. Vì như ông Hoàng Minh Tuyển đã tinh ý nhận xét, hình
như “sai luật đối” hoặc đối “không chỉnh”. Tuy nhiên, đây là đôi
câu đối Thủ tướng tặng GS Vũ Khiêu-một bậc thầy về cổ văn, chúng ta chẳng thể
hồ đồ kết luận. Bởi vậy về mặt thể loại, chúng tôi thử đưa ra mấy cách phân
tích và loại trừ như sau:
Sơn-Hà Linh-Khí Tại
Kim-Cổ Nhất Hiền-Nhân
Những
từ có gạch nối là từ ghép, không thể tách rời nhau. Nếu xếp vào diện danh từ
đối với danh từ thì “sơn hà” có thể
đối với “kim cổ”. Hai vế chỉ có hai
từ "tại" và "nhất" là từ đơn. Theo luật
“đối lời”, trước tiên muốn đối được, chúng phải đứng đối xứng với nhau ở vị trí giữa vế nọ với vế kia. Tuy nhiên, chữ “tại” đứng cuối vế đầu, chữ “nhất”
đứng giữa vế sau nên không thể có
chuyện đối được. Tiếp đến, hai chữ “linh
khí” ở vế đầu không thể đối với chữ “nhất”
ở vế hai, vì một đằng là từ ghép (linh
khí), một đằng là từ đơn (nhất);
một đằng là danh từ, một đằng là số từ đóng vai trò làm tính từ trong câu. Như
vậy, ta thấy rằng: hai chữ “linh khí”
ở vế thứ nhất không tìm được “đối” (thủ) ở vế thứ hai. Vế trên còn sót lại chữ “tại” ở vị trí cuối cùng cũng chẳng biết
“đối đáp” với ai, vì ở vế dưới hai chữ cuối cùng là từ ghép “hiền- nhân”.
Như
vậy, xét yêu cầu phải đối từng cặp từ, đối ý, đối lời, bằng trắc đối nhau...thì hai câu "Sơn Hà Linh Khí Tại - Kim Cổ Nhất Hiền Nhân" hoàn
toàn không đối và không phải là câu đối.
Phải
chăng, ý tác giả: "sơn hà"
với "kim cổ" là đối lời,
còn "linh khí tại" với "nhất hiền nhân" là đối ý? Tuy
nhiên, cách đối này chỉ phù hợp với dạng câu đối phú dài dằng
dặc có khi tới mấy chục chữ. Ví như câu đối của Tam Nguyên Yên Đổ khóc vợ, mỗi
vế có tới 34 chữ:
-Nhà chỉn cũng nghèo thay, nhờ được bà hay lam hay làm, thắt lưng bó
que, xắn
váy quai cồng, tất tả chân đăm đá chân chiêu, vì tớ đỡ đần trong mọi việc;
-Bà đi đâu vội mấy, để cho lão vất vơ vất vưởng, búi tóc củ hành,
buông quần
lá tọa, gật gù tay đũa chạm tay chén, cùng ai kể lể chuyện trăm năm”
Trong
đó: “Nhà chỉn cũng nghèo thay” và “Bà đi đâu vội mấy” là đối ý, có thể chấp nhận được trong thể loại câu đối phú. Tuy nhiên, người
hay chữ không lạm dụng đối ý nhiều. Bởi vậy ta thấy số chữ còn lại của cụ
Nguyễn Khuyến dù “cách cú” nhưng xét từng chữ đều vừa đối ý vừa đối lời rất
chỉnh; thành ngữ, từ láy, bằng trắc đối nhau chan chát rất tài tình. Trong khi câu
đối "Sơn Hà Linh Khí Tại - Kim Cổ
Nhất Hiền Nhân" hai
cặp từ “sơn hà” với “kim cổ” chỉ là đối “cưỡng”. Mỗi vế còn
lại 3 chữ: “linh khí tại” và “nhất hiền nhân” gọi là “đối” với nhau
chẳng qua do mỗi cụm từ đảm nhận một ý mà thôi.
Nói thế hóa ra Thủ tướng đã tặng, và Nhà
nghiên cứu văn hóa GS Vũ Khiêu-Chuyên gia câu đối, phú, văn tế, chúc văn... đã nhận món quà Mừng
thọ Trăm tuổi là một đôi câu đối thất luật? Theo tôi, chưa đủ căn cứ để kết
luận như vậy. Vì sao? Vì rất ít khả năng tác giả kém tới mức soạn đôi câu đối
mỗi vế 5 chữ mà rốt cuộc chỉ có hai cặp từ tạm đối được với nhau. Bởi vậy, có
thể đây vốn chỉ là hai câu ca ngợi GS Vũ Khiêu chứ tác giả không có ý làm câu đối. Việc nó “bỗng” trở thành
đôi “câu đối” là do người trình bày. Thế rồi người viết bài, đưa tin cứ ngỡ (hoặc căn cứ vào thông tin
của Ban tổ chức?) một (hoặc hai) câu văn chia làm hai vế, trình bày theo chiều
dọc, hai bên “đối xứng”, mỗi bên có số chữ bằng nhau là “câu đối”. Nếu vậy, sai
sót là do khâu biên tập của các báo: Thể
thao văn hóa, Đại đoàn kết, Tạp chí Sông Hương...khi đồng loạt đăng bài,
ảnh, kèm chú thích “Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng
tặng Giáo sư Vũ Khiêu câu đối "Sơn Hà Linh Khí Tại - Kim Cổ Nhất Hiền Nhân".
Về
nội dung:
Tuy
không được thấy nguyên văn chữ Hán,
nhưng chúng tôi đoán (gọi
là đoán, nhưng có thể nói là chính xác tới 99,9%, vì khó có chữ khác lọt vào
đây) mặt
chữ như sau: 山河靈氣在,
今古一賢人 = Sơn hà linh khí tại, Kim cổ nhất hiền nhân.
Trước tiên, căn cứ từ điển, chúng tôi xin giải nghĩa từng từ như sau:
Trước tiên, căn cứ từ điển, chúng tôi xin giải nghĩa từng từ như sau:
*Vế đầu trong câu:
-Sơn
hà 山河= núi
sông (ở đây được hiểu như đất nước,
giang sơn)
-Linh
khí 靈氣, Đào Duy Anh giải nghĩa: “Cái khí thiêng”. Hán ngữ đại từ điển (Tàu)
đưa ra mấy nghĩa đáng chú ý: 1.Thông tuệ
hoặc tú mỹ đích khí chất (có khí chất thông tuệ và đẹp tốt); 2.Tiên nhân đích khí chất (có khí chất của
người tiên); 3.Chỉ mỹ hảo đích danh thanh
(ý chỉ người có thanh danh tốt đẹp lắm)
-Tại
在 : ở; còn;
còn sống.
*Vế sau trong câu:
-Kim
cổ 今古: từ xưa tới nay.
-Nhất
一: đứng đầu; một; duy nhất.
-Hiền
nhân 賢人: bậc
tài đức kiêm toàn.
Sau đây là một số cách hiểu:
1.Cách hiểu thứ nhất:
Sơn hà linh khí tại = Khí chất tốt đẹp của GS Vũ Khiêu sẽ còn mãi
với núi sông; Kim cổ nhất hiền nhân
= GS Vũ Khiêu là người đứng đầu trong
các bậc hiền nhân từ xưa tới nay ( nhất
hiền nhân = hiền nhân đứng đầu, đứng thứ nhất).Ở đây, có thể do yêu cầu của thể lọai câu đối, tác giả lược bớt chữ "đệ" trong "đệ nhất", dùng chữ "nhất" với vai trò tính từ: đứng đầu, đầu tiên.
2.Cách hiểu thứ hai:
Sơn hà linh khí tại = Linh khí sơn hà ở đây = Khí thiêng của non sông đất Việt chung đúc
nên con người GS Vũ Khiêu (Hoặc:
Khí thiêng của non sông Việt Nam vẫn còn
đây-trong con người cụ Vũ Khiêu); Kim
cổ nhất hiền nhân = Kim cổ một người hiền = Từ xưa tới nay,
chỉ có một hiền nhân, đó là cụ Vũ Khiêu (nhất hiền nhân = chỉ có một người là hiền nhân). Cấu trúc của "nhất hiền nhân" này rõ ràng và thông dụng hơn trong ngữ pháp Hán văn so với cách hiểu thứ nhất.
1.Về cách hiểu thứ nhất:
- Theo chúng tôi, nội dung bức trướng phù
hợp với “cung bái” (kính viếng), hơn là "cung hạ” (kính mừng). Vì sao? Vì
chỉ với người đã khuất, người ta mới nói ra cái ý như "Kiều rằng: những đấng tài hoa, Thác là thể phách, còn là tinh
anh". “Tinh anh” hay “linh khí” chỉ có thể tồn tại mãi mãi một
khi nó lìa khỏi “quán trọ” “thể phách”.
Các bức hoành phi trên bàn thờ, người ta cũng hay dùng những câu như: “Hạo
khí trường tồn” (Khí chất tốt đẹp
còn mãi trường tồn) “Anh thanh như tại” (Thanh danh đẹp tốt vẫn như lúc còn sống)
để xưng tụng, tưởng nhớ người đã khuất. Hoặc đôi câu đối thờ: “Vạn cổ đan tâm minh nhật nguyệt, Thiên thu
nghĩa khí tráng sơn hà” (Muôn thuở
lòng son cùng nhật nguyệt, Ngàn năm nghĩa khí tựa sơn hà). Ở đây “Sơn
hà linh khí tại” có thể được hiểu: dù (cụ, ông, ngài) đã chết nhưng tài
năng, đức độ, sự nghiệp vẫn còn sống mãi với non sông đất nước. Chết mà như còn
sống vậy!
Chúng ta có thể ví dụ trong văn cảnh khác.
Khi Bác Hồ còn sống, có thể hô: “Hồ Chí
Minh muôn năm!”. Nhưng chỉ sau khi mất, người ta mới (có thể) đưa ra câu khẩu
hiệu: "Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại sống
mãi trong sự nghiệp của chúng ta". Hoặc khi Bác còn sống, thiếu nhi
hát: “Ngày ngày chúng cháu ước mong, Mong
sao Bác sống muôn đời...” [1] Nhưng các cháu
không thể hát mừng: “Bác còn sống mãi với
non sông đất nước, Bác còn sống mãi với đàn cháu yêu thương...” [2] khi
thực tế Bác vẫn còn sống và đang đi thăm các cháu.
Nói tóm lại, với bất cứ người nào, khi
đang còn sống, dẫu muốn đề cao đến mấy cũng không ai nói "gở", ca ngợi
là ông (cụ, ngài...) vẫn đang
“còn sống” với (như) cái gì đó. Thế nên, trong Truyện Kiều, đoạn Từ Hải chết đứng,
Nguyễn Du mới viết: "Khí thiêng khi
đã về thần, Nhơn nhơn còn đứng chôn chân giữa vòng". Linh khí sống mãi
với núi sông tức đã về cõi “bất tử”, về với tổ tiên, với cát bụi và thế giới cỏ
cây, phiêu du mây nước rồi. Còn nếu muốn chúc thọ thì chúc sống lâu trăm tuổi, sống lâu muôn tuổi, trăm năm có lẻ, thọ như tùng
bách...như ta vẫn thường nghe.
Đến đây, có bạn đọc sẽ nói rằng: cụ Vũ
Khiêu năm nay đã 100 tuổi, đằng nào mà chẳng đến lúc...Câu đối hay như vậy, mừng
trước để Cụ đọc, sau này thờ luôn cũng chẳng sao. Người ta vẫn đóng thọ đường,
xây dựng sinh phần trước đấy thôi. Đây cũng là một ý tốt. Tuy nhiên, theo
chúng tôi, nguyên tắc chưa chết thì chưa thắp hương, chưa phúng viếng. Thậm chí
đã chết nằm đó rồi, nhưng chưa phát tang thì cũng chưa thể bái lạy, khấn vái.
- Vế thứ hai Kim cổ nhất hiền nhân (Từ xưa cho tới nay, cụ là bậc hiền nhân duy nhất, đứng
đầu) cũng là cách xưng tặng dành cho người đã chết. Vì sao? Tục ngữ Việt Nam
có câu "Bảy mươi chưa què chớ khoe rằng
tốt" (Xưa, bảy mươi là "ngấp nghé miệng lỗ"-Nhân sinh thất thập cổ lai hy). Tục ngữ
gốc Hán cũng nói rằng "Cái quan định
luận" (蓋棺定論),
nghĩa là sau khi đậy nắp quan tài lại, (sau khi chết) mới có thể bàn luận đúng sai,
hay dở về một con người nào đó. Đến đây, có bạn đọc lại nói rằng, cụ Vũ Khiêu
nay đã ở tuổi 100, con người, sự nghiệp
của Cụ đã rõ, đánh giá, tôn vinh lúc này cũng là được rồi. Tuy nhiên, dù
bất thành văn nhưng cũng là luật. Nhà tu hành khổ hạnh “Đã được
ba tháng ba năm” nhưng “Còn một ngày
nữa mà không hoàn thành” (vì phạm giới) thì cũng không thể nào đắc đạo. Con người ta có khi xấu nay, tốt mai hoặc tốt nay xấu mai. Nhiều
trường hợp đã “cái quan” rồi, đã “định luận” rồi, vậy mà có khi hàng trăm
năm sau đang còn phải “luận định” lại.
Bởi vậy, nếu câu "Kim cổ nhất hiền
nhân" không dành cho người
đã chết thì cách xếp thứ bậc, ca ngợi người sống như vậy cũng là trái.
“Hiền
nhân, quân tử” là khái
niệm của Nho gia, một danh xưng chưa bao giờ có giấy chứng nhận. Hán
ngữ Đại từ điển (Tàu) định nghĩa “Hiền
nhân: Tài đức kiêm lược đích nhân
德才兼备的人” (Người có tài và đức gọi là hiền nhân) Từ
điển tiếng Việt định
nghĩa “hiền nhân”: người có đức lớn, tài cao
theo quan niệm thời trước. Hán Việt từ điển, mục từ “Hiền” (賢) Đào Duy Anh giải nghĩa: “Người có đức hạnh, tài năng”, nhưng phần
trích dẫn từ ngữ, hai chữ “hiền nhân”
賢人 lại chỉ được giải thích là: “Người có đức”. Tài đến mức nào, đức lớn
đến mức nào thì được gọi là hiền nhân? Không có sách nào quy định. Tuy nhiên,
trong suy nghĩ của chúng ta, hiền nhân tất phải là bậc tài cao, đức lớn; hình ảnh,
nhân cách, tài năng, tư tưởng của họ có ảnh hưởng quan trọng tới nhân quần, tác
động lớn tới thời đại (Trong văn chương Việt, còn một khái niệm "hiền nhân, quân tử" khá "độc đáo" nữa. Đó là "Hiền nhân, quân tử ai mà chẳng, Mỏi gối chồn chân vẫn muốn trèo"-Hồ Xuân Hương. Chúng tôi xin loại trừ "hiền nhân" này)
Ở đây chúng tôi xin không bàn đến chuyện
GS Vũ Khiêu có phải là "hiền
nhân" hay không. Nhưng nếu nói rằng GS Vũ Khiêu đứng đầu (hoặc duy nhất) trong các bậc
hiền nhân từ xưa tới giờ (Kim cổ nhất hiền
nhân) e rằng không còn là chuyện “đề
cao quá” như ông Hoàng Minh Tuyển nói nữa, mà là phạm thượng! Vì sao? Xin lấy
một ví dụ nhỏ để liên tưởng: Trong bài thơ “Bác ơi”, Tố Hữu viết: “Bác đã lên đường theo tổ tiên, Mác-Lê-nin
thế giới Người Hiền”. Bài thơ này đã được đưa vào chương trình giáo khoa phổ
thông. Vậy“Cứ trong ý tứ mà suy”, Hồ
Chủ tịch, Mác-Lê-nin là những “người hiền”,
những “người hiền tiền bối” và là bậc thầy vĩ đại của cụ Vũ Khiêu. Thế mà cụ Vũ
Khiêu lại được tôn xưng là “Cổ kim nhất hiền nhân”, đứng đầu, duy nhất “thế giới người hiền” từ xưa tới nay, chẳng
phải là “phạm thượng” lắm sao?
Trong văn chương hay thực tế có một số
danh xưng như “Thiên hạ đệ nhất kiếm”, “Thiên
hạ đệ nhất mỹ nhân”, “Thăng Long đệ nhất kiếm”... nhưng “nhất” ở đây là “nhất”, duy nhất trong một phạm
vi, thời điểm (không gian và thời gian) nhất định nào đó. Nếu nói ai “nhất”, (hoặc duy nhất) từ
cổ chí kim là điều cực khó. Đặc biệt “nhất
hiền nhân” một khái niệm khó đo đếm, so sánh lại càng không có cơ sở. Phải
chăng, tác giả muốn nói: nước Việt có nhiều
hiền nhân, nhưng chỉ có GS Vũ Khiêu đáng gọi là "nhất hiền nhân" từ cổ chí kim vì Cụ đang minh mẫn ở tuổi 100, lại được phong
Anh hùng, được Giải thưởng Hồ Chí Minh, xưa nay chưa ai từng có?
2.Về cách hiểu thứ hai:
Sơn
hà linh khí tại = Linh khí non sông ở đây = Khí thiêng của non sông Việt Nam chung đúc
nên con người GS Vũ Khiêu. Hoặc
Khí thiêng của non sông Việt Nam vẫn còn
đây-trong con người cụ Vũ Khiêu); Kim
cổ nhất hiền nhân = Kim cổ một người hiền = Từ xưa tới nay, chỉ
có một hiền nhân (đó
là cụ Vũ Khiêu).
Cách hiểu này có vẻ không “sái”, phù hợp với
“cung hạ”. Tuy nhiên, căn cứ vào chữ nghĩa vẫn không tránh khỏi "phạm thượng".
Vì sao? Vì ý thứ nhất “Khí thiêng của non
sông Việt Nam chung đúc nên con người GS Vũ Khiêu” khiến người ta liên tưởng
đến lời điếu văn: “Dân tộc ta, nhân dân ta, non sông
đất nước ta đã sinh ra Hồ Chủ tịch...” Phải chăng, vốn ý tác giả muốn dùng từ "nguyên khí" nhưng nó lại thành "linh khí": Sơn hà nguyên khí tại (Cụ Vũ Khiêu là nguyên khí, hiền tài của quốc gia, sơn hà) ?
Ý thứ hai: Từ xưa tới nay, chỉ có một người đáng gọi hiền nhân là Cụ (Vũ Khiêu). Kiểu tôn xưng “vô tiền khoáng hậu”, đứng trên tất cả các bậc hiền nhân này càng không ổn.
Ý thứ hai: Từ xưa tới nay, chỉ có một người đáng gọi hiền nhân là Cụ (Vũ Khiêu). Kiểu tôn xưng “vô tiền khoáng hậu”, đứng trên tất cả các bậc hiền nhân này càng không ổn.
Riêng câu “Kim cổ nhất hiền nhân” theo chúng tôi còn có thể hiểu theo cách thứ
3: Người thông hiểu chuyện cổ kim, xưa
nay nhất chính là bậc Hiền nhân Vũ Khiêu. Và cách thứ 4: Từ cổ chí kim, chỉ có bậc hiền nhân mới đáng gọi là tôn quý. Tuy nhiên, 2 cách hiểu, nhìn nhận, đánh giá này càng không có cơ sở.
Trong Hán tự có hiện tượng gọi
là đồng âm, dị tự, dị nghĩa. Tức là đọc giống nhau, nhưng tự dạng (tự hình) và nghĩa khác nhau.
Thế nên đến đây, ông Hoàng Minh Tuyển hoặc bạn đọc có thể sẽ thắc mắc: 99,9% là
mặt chữ Hán dịch ngược trong đôi "câu đối" phiên âm Quốc ngữ như phương
án đã phân tích, vậy còn 0,1% khả năng là gì? Theo chúng tôi, có hai chữ
đáng chú ý, đó là "hà"
河 trong "sơn hà" 山河 và "cổ" 古 trong "kim cổ" 今古:
-Vế đầu: Ngoài chữ "hà" 河 nghĩa là sông,
còn có một chữ "hà" 霞 nghĩa là ráng mây. Sơn hà 山霞 có thể hiểu là ráng mây chiều tà trên rặng núi. Sơn hà linh khí tại 山 霞 靈 氣 在 nghĩa là Linh khí chỉ còn
như ráng mây chiều tà trên đỉnh núi.
-Vế thứ hai: Ngoài chữ "cổ" 古 là xưa, còn có một chữ "cổ" 鼓 nghĩa là "cái trống, đánh trống". Kim cổ
今鼓
nghĩa là cái trống ngày nay, hoặc ngày nay có cái trống. Kim cổ
nhất hiền nhân 今鼓一賢人 nghĩa là: ngày
nay cái trống kêu to thì được gọi là hiền nhân (!)
Thật vô lý! Thế nên, khả năng có 0,1% có chữ
Hán khác "lọt vào" chúng tôi xin được loại bỏ hoàn toàn.
Như vậy, tuy chữ nghĩa "sờ sờ"
ra đó, nhưng chữ có nghĩa đen, nghĩa bóng; có nghĩa gốc, nghĩa ngọn; lại có
chơi chữ, chiết tự, “ý tại ngôn ngoại” nên chúng tôi chẳng dám chủ quan ấn định
một cách hiểu duy nhất nào đó. Ngược lại đã thử tìm hiểu, xem xét dưới nhiều
góc độ để tìm ra một cách hiểu hợp lý, tích cực nhưng xem ra vẫn chưa thấy ổn với
cách hiểu nào. Có lẽ do kiến thức hạn hẹp của mình nên cách hiểu hay, hiểu đúng
của tác giả câu đối chúng tôi chưa thể nhìn ra?
Về đôi câu đối: “Triết gia trong cách mạng, Nghệ sĩ giữa anh hùng”, mà ông Hoàng Minh Tuyển hỏi. Theo chúng
tôi, đây là đôi câu đối Nôm rất chỉnh, có nhịp điệu, đối nhau chan chát, nghe
rất hay, và có thể hiểu: GS Vũ Khiêu là
một Triết gia Cách mạng; là một Nghệ sĩ Anh hùng. Tuy nhiên, "rằng hay thì thật là hay",
nhưng nghe...có vẻ không đúng và ... “hở miếng”. Vì sao ? Vì:
-GS Vũ Khiêu là người có nghiên cứu về triết học chứ không phải
là, (chính là) "Triết gia"-Nhà
triết học. Vì Nhà triết học phải
là người đề xuất học thuyết, tư tưởng, chứ không phải là Nhà nghiên cứu về học thuyết, tư tưởng của Nhà triết học nào đó. "Triết
gia" chính là cách gọi tắt "Triết học gia"-Nhà triết học. Từ
điển tiếng Việt (Hoàng
Phê) giải nghĩa: “Triết gia-nhà
triết học-các triết gia Hi Lạp cổ
đại”.
Có lẽ, ý tác giả đôi câu đối muốn dùng chữ
“triết nhân” chăng? (triết 哲 với nghĩa người hiền trí, có trí tuệ thông minh, sáng suốt, như: hiền triết, tiên triết...). Đào Duy Anh
giải nghĩa: “Triết
nhân: người hiền trí”. Hán ngữ đại từ điển:“哲人: 智慧卓越的人” (Triết nhân: trí tuệ trác việt đích nhân -Triết
nhân: người có trí tuệ trác việt). Như
vậy, nếu có chăng, GS Vũ Khiêu chỉ có thể được gọi là “triết nhân” chứ không thể
là “triết gia” (Đây chỉ là ví dụ về
cách sử dụng chữ nghĩa. Chúng tôi không có ý cho rằng GS xứng đáng được gọi là triết nhân)
-GS Vũ Khiêu là Nhà nghiên cứu văn hóa, chứ
không phải “Nghệ sĩ”. Vì GS không
chuyên sáng tác, cũng chẳng biểu diễn môn nghệ thuật nào. Từ điển tiếng Việt định nghĩa: "Nghệ sĩ: 1.người chuyên hoạt động [sáng tác hoặc biểu diễn] trong một bộ môn nghệ
thuật. nghệ sĩ nhiếp ảnh-tâm hồn nghệ sĩ;2.danh
hiệu thường dùng để gọi diễn viên hay ca sĩ có tài năng xuất sắc”. Phải
chăng, ý tác giả muốn nói: GS Vũ Khiêu là một “Anh hùng” mang tâm hồn, phong cách “Nghệ sĩ”?
Cuối cùng, chúng tôi cho rằng, hai từ “trong” và “giữa” trong đôi câu đối “Triết
gia trong cách mạng, Nghệ sĩ giữa anh hùng” hơi tối nghĩa và thiếu chặt
chẽ. Nó khiến người ta có thể hiểu thành:
-“Triết gia trong cách mạng = GS Vũ Khiêu chỉ xứng đáng là một “Triết gia” trong (số) những người làm chính trị, cách mạng.
- Nghệ sĩ
giữa anh hùng = GS là một “Nghệ
sĩ” đứng giữa
hàng ngũ những người “Anh
hùng” chứ không phải bản thân GS là “Anh hùng”. Hoặc: GS chỉ đáng được gọi là “Nghệ sĩ” trong hàng ngũ
những người “Anh hùng” mà thôi. Như thế hóa ra, “Triết gia” hay “Nghệ sĩ” ở đây
đều hoàn toàn “nghiệp dư” hay sao? Nếu bỏ hai từ “trong” và “giữa” đi, đôi câu đối sẽ
chặt chẽ, dễ hiểu, kín kẽ hơn (dù có vẻ không hay): Triết gia Cách mạng; Nghệ sĩ Anh
hùng (Triết gia làm Cách mạng, Nghệ sĩ lại Anh hùng)
Các cụ xưa dạy văn giống võ ở chỗ: câu
chữ, quyền cước tung ra dù mạnh mẽ, đẹp mắt đến mấy nhưng sơ hở, thiếu kín kẽ, thì kể như
chưa hay, chưa giỏi. Thậm chí là nguy hiểm.
Trở lại với vấn đề đang bàn. Ông Hoàng
Minh Tuyển quan tâm tới đôi câu đối và chữ nghĩa Thủ tướng tặng GS Vũ Khiêu là có
lý. Bởi chuyện tôn xưng tên tuổi, danh hiệu của Nhà nước với một cá nhân
không đơn giản biểu hiện tình cảm mà còn thể hiện tôn ty trật tự trong xã hội.
Đặc biệt đối với những người có danh vọng; hình ảnh, tên tuổi của họ có ảnh hưởng
trong xã hội lại càng không thể khinh suất. Chẳng phải ngẫu nhiên mà cách nay
hơn 500 năm, chỉ là chuyện xưng hô trong triều đình, quân doanh thôi, nhưng vua
Lê Thánh tông từng phải chấn chỉnh: “Sắc Lễ bộ yết bảng cho trăm quan và các quân rằng: Kể từ
nay, nếu không phải là bậc túc nho danh vọng, tuổi cao đức lớn thì không được gọi bừa là "tiên
sinh". (Đại Việt sứ ký
toàn thư-Bản kỷ thực lục-Quyển VIII-Kỷ nhà Lê).
Danh quá kỳ thực dễ gây nên sự huyễn hoặc, đảo điên và gieo mầm loạn. Bản thân người được tặng, nếu có liêm sỉ cũng sẽ không dám nhận. Bởi vậy, ông Mạnh tử mới nói rằng: “Thanh văn quá tình, quân tử sỉ chi - 聲 聞 過 情 君子 恥 之 (Danh quá thực tình là điều người quân tử lấy làm hổ thẹn) Thế nhưng, một điều khó hiểu là tại sao GS. Vũ Khiêu vẫn mãn nguyện ngước nhìn mười chữ vàng vấn vít trên nền vân mây cùng đôi rồng chầu phía trên bức tượng đồng của chính ông?
Danh quá kỳ thực dễ gây nên sự huyễn hoặc, đảo điên và gieo mầm loạn. Bản thân người được tặng, nếu có liêm sỉ cũng sẽ không dám nhận. Bởi vậy, ông Mạnh tử mới nói rằng: “Thanh văn quá tình, quân tử sỉ chi - 聲 聞 過 情 君子 恥 之 (Danh quá thực tình là điều người quân tử lấy làm hổ thẹn) Thế nhưng, một điều khó hiểu là tại sao GS. Vũ Khiêu vẫn mãn nguyện ngước nhìn mười chữ vàng vấn vít trên nền vân mây cùng đôi rồng chầu phía trên bức tượng đồng của chính ông?
Chúc thọ, mừng tặng quà sao cho có ý
nghĩa, mãn nguyện người trao, vui lòng, hợp ý người nhận, trên dưới trông vào đều
ngợi khen là việc khó. Mừng tặng bằng chữ nghĩa lại càng khó hơn. Có vẻ như hai
đôi câu đối Thủ tướng tặng GS Vũ Khiêu “trục trặc” trong khâu nào đó chăng?
Đến đây, chắc hẳn sẽ có “kẻ chê, người cười” HTC rằng: nói người khác
"phạm thượng" nhưng bản thân mình còn "phạm thượng" hơn! Điều
này không phải không có lý. Tuy nhiên, câu chuyện chữ nghĩa với ông Hoàng
Minh Tuyển và bạn đọc khiến tôi nhớ đến một câu chuyện chữ nghĩa khác. Lê Thánh
tông là ông vua nổi tiếng hay chữ. Thơ văn của ông gồm cả chữ Hán và chữ Nôm: Thiên Nam dư hạ, Sĩ hoạn trâm quy, Xuân vân
thi tập, Hồng Đức quốc âm thi,... Ông có những vần thơ Nôm tinh tế, mẫu mực, cổ kính mà rất hiện
đại như: “Đầu nhà khói tỏa lồng sương bạc,
Sườn núi chim gù ẩn lá xanh”. Thế nhưng có một triều thần dám thẳng thừng
chê văn thơ của ông là "phù hoa, vô
dụng" (xưa tội này có thể bị chém đầu). Người đó là Nguyễn Bá Ký!
Sách “Đại Việt sử ký toàn thư” chép: “Quốc tử giám tế tửu kiêm Văn minh điện đại học sĩ Nguyễn Bá Ký chết. Trước đó, Bá Ký cho rằng vua làm văn không chú ý tới kinh, sử, dâng sớ khuyên can. Vua dụ rằng: "Trẫm vừa xem hết tờ sớ, ngươi bảo là trẫm không chú ý kinh sử, lại chuộng lối học phù hoa, vô dụng, chỉ ngụ ý ở ngoài mây khói. Nếu ta ưa chuộng văn hoa, không lấy gốc kinh, sử thì còn sách nào nữa? Ta tự xét mình, xét lời ngươi nói, thì trong bốn chữ "phù hoa vô dụng" kia, thực đã gồm cả lòng trung rồi, thế mà ta lại làm văn mà biện lại, thì ta thực có lỗi. Lúc ấy, người đã kịp thời can ngăn, chẳng vì thế mà giữ ý".
Sách “Đại Việt sử ký toàn thư” chép: “Quốc tử giám tế tửu kiêm Văn minh điện đại học sĩ Nguyễn Bá Ký chết. Trước đó, Bá Ký cho rằng vua làm văn không chú ý tới kinh, sử, dâng sớ khuyên can. Vua dụ rằng: "Trẫm vừa xem hết tờ sớ, ngươi bảo là trẫm không chú ý kinh sử, lại chuộng lối học phù hoa, vô dụng, chỉ ngụ ý ở ngoài mây khói. Nếu ta ưa chuộng văn hoa, không lấy gốc kinh, sử thì còn sách nào nữa? Ta tự xét mình, xét lời ngươi nói, thì trong bốn chữ "phù hoa vô dụng" kia, thực đã gồm cả lòng trung rồi, thế mà ta lại làm văn mà biện lại, thì ta thực có lỗi. Lúc ấy, người đã kịp thời can ngăn, chẳng vì thế mà giữ ý".
Đến đây chết, vua sai Tư lễ
giám quan Phạm Hổ đem sắc đến dụ rằng: "Ngươi
thờ vua trung thành, giữ mình chính trực, sớm tối ở bên ta, nay được 6 năm, lúc
thoi thóp rồi mà lòng trung vẫn chưa thôi!" (Đại Việt sử ký toàn thư-Bản kỷ thực lục, Quyển XII-Kỷ nhà Lê).
Câu chuyện này góp phần giải thích tại
sao, Lê Thánh tông không chỉ là ông vua giỏi mà còn được tôn là vị Minh Quân. Ông
là vua sáng nên có nhiều tôi hiền. Và dù Bá Ký chê thế nào, Lê Thánh tông vẫn
là một trong những ông vua hay chữ nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam.
Tôi chẳng dám ví mình giống như Quốc tử giám tế tửu kiêm Văn minh điện đại học sĩ Nguyễn Bá Ký. Nhưng có lẽ khi mải bàn chuyện chữ
nghĩa đã không tránh khỏi tội “phạm thượng”, "khi quân" như Bá Ký. Tuy nhiên, ngày xưa, Bá Ký
chẳng những không bị mất đầu mà còn được ngợi khen có lòng trung, thì ngày nay
câu chuyện chữ nghĩa của Tuấn Công thư phòng có đến
tai Thủ tướng và GS Vũ Khiêu, tôi tin rằng, dẫu không được khen ngợi thì các vị
cũng chẳng nỡ trách phạt.
Cuối cùng chúng tôi dám mong sẽ được GS Vũ
Khiêu-Bậc thầy về cổ văn, hoặc chính tác giả câu đối Chúc thọ GS giảng giải tường
tận những chữ nghĩa mà chúng tôi và độc giả còn băn khuăn, chưa biết hiểu thế
nào cho đúng, cho hay!
Như vậy, trong khả năng kiến thức hạn hẹp,
chúng tôi đã cố gắng giải thích. Nếu phải thất vọng,
mong ông Hoàng Minh Tuyển và bạn đọc thông cảm cho, và tiếp tục quan tâm đến
chuyện chữ nghĩa của Tuấn Công thư phòng.
HTC Thanh Hóa 28/9/2014
Chú thích:
-[1] và [2] Lời các Bài hát Thiếu nhi, ca ngợi Hồ Chủ tịch.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét