HOÀNG
TUẤN PHỔ
Thanh
Hóa là một vùng văn hóa, trong đó ngôn ngữ người Việt, thành phần dân tộc chủ
thể rất giàu sắc thái địa phương, nhưng chưa có một công trình nghiên cứu khoa
học đầy đủ và sâu sắc.
Cây trôi ở làng Văn Đoài-Quảng Hòa-Quảng Xương-Thanh Hóa
Ảnh:Tuấn Công
Sách “Địa
chí văn hóa xã hội Thanh Hóa” cũng chỉ dành cho “lời ăn tiếng nói”
người xứ Thanh số trang ít ỏi với nội dung sơ sài. Các sách Địa
chí huyện Hà Trung, Địa chí huyện Thọ Xuân, chú ý đề cập vấn đề “thổ âm - thổ
ngữ”, nêu rõ sắc thái địa phương, tuy nhiên chỉ giới hạn phạm vi trong huyện.
Thổ âm - thổ ngữ
Thanh Hóa là giọng nói và lời nói mang tính địa phương của người Thanh Hóa.
Người Thanh Hóa ở đây là người Việt cư trú trên đất Thanh Hóa. Và, Thanh Hóa,
chúng ta đều biết, một vùng đất lịch sử khá lâu đời: thời Hùng vương là bộ Cửu
Chân, thời Bắc thuộc là quận Cửu Chân bên cạnh quận Giao Chỉ, thời phong kiến
tự chủ là Châu Ái, lộ, trấn Thanh Hoa rồi tỉnh Thanh Hóa.
Về địa lý, Thanh
Hóa được đóng khung bởi ba bề núi, một mặt biển, đèo Ba Dội (Tam Điệp) mở cửa
ra đồng bằng Bắc bộ bao la, khe Nước Lạnh (Hàn Khê) thông lối vào dải đất dằng
dặc miền Trung. Nhìn vào bản đồ lịch sử - địa lý Việt Nam cận hiện đại, Thanh
Hóa giống khu vực “đệm” ở giữa miền Bắc với miền Trung. Một số học giả người
Pháp thời trước muốn đem Thanh Hóa nhập vào Bắc kỳ, dựa vào ngôn ngữ và khí
hậu, để tách Thanh Hóa khỏi Trung kỳ “trực trị” của triều đình Huế, thể hiện
kín đáo một quan điểm mang ý đồ chính trị, vì bấy giờ Bắc kỳ là đất bảo hộ của
Pháp. Mất Thanh Hóa, nhà Nguyễn mất một hậu phương rộng lớn, kho nhân, tài, vật
lực dồi dào, mất luôn chỗ dựa tinh thần đất tổ quê cha. Nhìn chung, người ta
đều thấy Thanh Hóa như một nước Việt Nam thu nhỏ, có rừng, biển, có trung du,
đồng bằng, núi liền núi, sông liền sông, nhiều thành phần dân tộc anh em cùng
cư trú, đoàn kết thân ái, cần kiệm sáng tạo, chiến đấu dũng cảm... Trong lịch
sử chưa bao giờ bị chia tách, không thể chia tách. Tính ổn định về lịch sử, địa
lý và tính bền vững của cư dân bản địa người Việt Cửu Chân (xuất hiện từ thời
Hùng vương và có thể xa xưa hơn nữa) là cơ sở để Thanh Hóa hình thành một kiểu
lời ăn tiếng nói giàu sắc thái thổ âm - thổ ngữ. Trong tiến trình lịch sử,
nhiều người từ đồng bằng sông Hồng di cư vào, từ lưu vực sông Lam chuyển ra, dĩ
nhiên họ đều mang theo lời ăn tiếng nói quê hương mình, nhưng chỉ qua một vài
đời, không ai còn nhận ra gốc tích. Ngược lại, người Thanh Hóa đi đến phương
trời nào của Tổ quốc, dù là Hà Nội với ngôn ngữ được xem là “chuẩn” hay những
miền quê Nam bộ với ngôn ngữ “lệch”, chất giọng Thanh Hóa vẫn có thể nhận ra,
mặc dù họ đã cố gắng “tẩy xóa” dấu vết thổ âm - thổ ngữ xứ Thanh.
Nói đến lời ăn tiếng nói Thanh Hóa, người ta thường nhấn mạnh cụm từ “mô, tê, răng, rứa”, như là điểm đặc trưng nhất. Nhưng “mô, tê, răng, rứa” từ sông Lam vào đến vịnh Hà Tiên, cả Trung - Nam bộ (quá nửa nước) đều nói, chỉ khác nhau dấu giọng (phát âm) nặng nhẹ - sự thực, vùng ngôn ngữ xứ Thanh là một thế giới âm thanh vô cùng phong phú - phong phú đến rối rắm, phức tạp, khác nào ngàn cây nội cỏ, khiến nhà nghiên cứu ngại bước chân vào. Tuy nhiên, khi nó được khám phá, hẳn ai cũng thấy hết sức thú vị. Trong một chương trình truyền hình, có sinh viên người Thanh Hóa không nói “cầm lấy” mà nói “cằm lấy” lập tức bị người dẫn chương trình phê phán với giọng châm biếm khiến cử tọa cười ồ! Tưởng chỉ là chuyện vui, hóa chuyện... buồn... cười! Buồn cho kiến thức nông cạn và thái độ thô thiển đến tức cười!
Nói đến lời ăn tiếng nói Thanh Hóa, người ta thường nhấn mạnh cụm từ “mô, tê, răng, rứa”, như là điểm đặc trưng nhất. Nhưng “mô, tê, răng, rứa” từ sông Lam vào đến vịnh Hà Tiên, cả Trung - Nam bộ (quá nửa nước) đều nói, chỉ khác nhau dấu giọng (phát âm) nặng nhẹ - sự thực, vùng ngôn ngữ xứ Thanh là một thế giới âm thanh vô cùng phong phú - phong phú đến rối rắm, phức tạp, khác nào ngàn cây nội cỏ, khiến nhà nghiên cứu ngại bước chân vào. Tuy nhiên, khi nó được khám phá, hẳn ai cũng thấy hết sức thú vị. Trong một chương trình truyền hình, có sinh viên người Thanh Hóa không nói “cầm lấy” mà nói “cằm lấy” lập tức bị người dẫn chương trình phê phán với giọng châm biếm khiến cử tọa cười ồ! Tưởng chỉ là chuyện vui, hóa chuyện... buồn... cười! Buồn cho kiến thức nông cạn và thái độ thô thiển đến tức cười!
Tiếng Hà Nội được
xem là chuẩn, nhưng nếu người các địa phương trong nước phát âm chệch (không
chuẩn) cũng chẳng có gì lạ. Bởi xứ sở Hà thành chẳng phải hiếm trường hợp “nói
năng” không chuẩn. Ví dụ: âm tr nói thành âm gi (ông giời, giồng cây, ăn
giầu...), âm tr thành âm ch (con châu, chào phúng, đánh cháo...) s thành x (xo
xánh, xung xướng, cam xài, xứ xở...) âm r thành âm d (du ngủ, chín dộ, dung
động...), v.v...
Tiếng Việt phổ
thông yêu cầu đọc và viết chuẩn, nhưng chưa hề quy định tất cả người Việt phải
phát âm chuẩn, nói giọng chuẩn, vì hoặc là không làm được hay không nên làm bởi
mất đi sự muôn màu ngàn vẻ của nó. Tuy nhiên, nhìn chung phần lớn học sinh
thường ngày phát âm không chuẩn, khi viết và đọc ít khi mắc lỗi chính tả. Cũng
có những trường hợp nếu khô cứng “chuẩn hóa” chỉ gây tác hại “nghèo hóa” tiếng
Việt. Ví dụ: nhầm lẫn và lầm lẫn, lềnh phềnh và lềnh bềnh, đường sá và đàng sá,
ví dụ và thí dụ, khoác lác và phét lác, nói láo và nói phét, lười biếng và lười
nhác, v.v... Có những thành ngữ, tục ngữ, ca dao địa phương Thanh Hóa in dậm
dấu vết thổ âm - thổ ngữ xứ Thanh, đã góp phần làm giàu có thêm kho tàng thành
ngữ, tục ngữ, ca dao Việt Nam:
- Đã mất lả lại
mất cả tro bếp (lả = lửa).
- Thuốc đắng đã
tật (đã là khỏi, không phải “dã”).
- Việc nhà nhác
việc chú bác siêng (nhác = lười).
- Anh về cho em về
theo
Bác mẹ có đánh ta
leo lên giường (leo = trèo)
- Làm đẫy không xấu
bằng xay cấu ban ngày.
(đẫy = đĩ, cấu =
thóc gạo).
Thổ âm - thổ ngữ
góp phần quan trọng tạo nên sắc thái địa phương. Như dân ca Đông Anh có câu:
“Ba bốn o có bợm cùng chăng...” nếu thay o bằng cô, bợm bằng bạn thì không còn
là Thanh Hóa. Hay bài hát về Hà Tĩnh của Nguyễn Văn Tý: “Đi mố rồi cũng nhớ về
Hà Tịnh ..” nếu thay mố bằng đâu, chữa Tịnh thành Tĩnh thì đâu phải chất dân ca
xứ Nghệ. Nghe dân ca Nam bộ, ta như được dự những bữa tiệc thổ âm - thổ ngữ
vùng đồng bằng sông nước Cửu Long xiết bao kỳ thú...
Tuy vậy, đối với dân ca lời cổ vùng trung du, đồng bằng Bắc bộ, ta lại thấy
những từ ngữ giống như từ Thanh Hóa, lạc bước tới: Hột (là hạt trong bài “Gọi
nghé” - Dân ca Hải Phòng), phềnh (là bềnh trong bài “Qua sông hái củi” - Dân ca
Hải Phòng), Dày (là đạp trong bài “Cái cong - dân ca Hà Nam), Huê (là hoa trong
bài “Huê thơm bướm lượn” - Quan họ Bắc Ninh), Huê tình trong bài “Đố hoa” - Dân
ca Phú Thọ ... Càng ngạc nhiên hơn khi ta được nghe người Phú Thọ - Đất tổ Hùng
vương, không hát “tình là tình tình tang tình” mà cũng hát “tềnh là tềnh tềnh
tang tềnh” theo lối phát âm “chệch” hay một lối biến âm phổ biến: “i” thành “ê”
của người xứ Thanh. Trong lời cổ dân ca trong trung du, đồng bằng Bắc bộ, ta
còn gặp những từ ngữ cổ hiện nay vẫn thấy dùng ở nông thôn các huyện Nông Cống,
Triệu Sơn, Đông Sơn, Thiệu Hóa, Thọ Xuân, Yên Định: Sui = sôi; Tra = bỏ; Cái thời
= cái giỏ; Loa = bát to loe miệng; Lội = lặn; Bứt = cắt, hái ... Đó là cổ ngữ
xứ Thanh cũng là phương ngữ của một số miền quê khác: Hải Phòng, Hà Nam, Bắc
Ninh, Phú Thọ... của thời đã qua?
Vấn đề thổ âm -
thổ ngữ Thanh Hóa không chỉ đơn thuần là thổ âm - thổ ngữ của một địa phương.
Nhiều, rất nhiều trường hợp không có nguồn gốc bản địa, hoặc tiếp nhận từ miền
quê khác, hay chịu ảnh hưởng qua lại của dân tộc anh em Mường, Thái... cùng
sống chung hòa hợp trong một đại gia đình dân tộc trên đất Thanh. Sự tiếp biến
văn hóa ấy cũng thấy ở các vùng quê văn hóa in đậm sắc thái địa phương.
Thổ âm - thổ ngữ
là hai thuật ngữ khoa học vì chúng có quan hệ mật thiết với nhau, người ta
thường đề cập như một thuật ngữ kép.
Thổ âm là sự biến
âm và chuyển vần (chữ cái) theo cách phát âm có nguyên tắc và quy tắc ở mức độ
nhất định. Ví dụ:
- Cầm -> cằm;
Tình -> tềnh; Cắm -> cặm; Cái -> cấy ....
- Trâu -> tru;
Về -> viền; Củi -> củn; Bồng -> bỏng ....
Sự biến âm thường
rất dễ nhận ra đối với người ở vùng quê khác. Hãy so sánh tiếng phổ thông với
tiếng Thanh Hóa, ta thấy âm “â” biến thành âm “ă”, âm “a” biến thành âm “â”, âm
“i” biến thành âm “ê”, âm “ê” biến thành âm “iê”, âm “ô” biến thành âm “o”...
Trường hợp âm “âu” biến thành âm “u” và ngược lại âm “u” biến thành âm “âu”
dường như trái “quy luật”. Ví dụ:
- Con trâu (phổ
thông), con tru (Thanh Hóa).
- Cây xoan đâu
(phổ thông), cây xoan đu (Thanh Hóa).
- Đi tù (phổ
thông), đi tầu (Thanh Hóa). Nhưng “cây đu đủ” (phổ thông), Thanh Hóa không nói
“cây đâu đẩu” mà vẫn nói “Cây đu đủ”, tại sao? Vì Thanh Hóa gọi “Cây đu
đủ” là “Cây hổng” còn đu đủ là từ du nhập, vay mượn, dùng lâu thành quen, tưởng
lầm là của mình ...
Khác thổ âm, thổ
ngữ chính là cổ ngữ (tiếng cổ), lưu hành từ xa xưa của Thanh Hóa, ở Thanh Hóa.
Ví dụ: trốc (đầu), trượng (mắt), cắn (sửa), me (con bê), ỉn, ỉ (con lợn), ruốc
(moi), con của (vật nuôi), anh đỏ, chị đỏ (trai gái nông dân lấy vợ, lấy chồng
chưa có con)...
Có những địa danh cổ rất thú vị, giảng giải phải hàng trang sách: “Mười hai xứ
Láng mười tám xứ Neo” (Thọ Xuân), “Tứ xã Bản” (Yên Định), “La Mát La
Mạt” (Hà Trung), “Tạnh Xá” (thành phố Thanh Hóa)... Nhiều từ ngữ cổ trong tác
phẩm văn học cổ: Quốc âm thi tập (Nguyễn Trãi), Hồng Đức Quốc Âm thi tập; Ngọa
Long cương (Đào Duy Từ), Sơ kính tân trang (Phạm Thái), Song tinh bất dạ
(Nguyễn Hữu Hào), Truyện Kiều (Nguyễn Du)... hiện còn thấy dùng ở nhiều làng
quê Thanh Hóa.
Hiện nay “Tiếng
Thanh Hóa” đang phát triển theo hướng “chuẩn hóa” của tiếng Việt. Trong lịch sử
“tiếng Thanh Hóa” đã theo chân người Thanh Hóa “mang gươm đi mở cõi” đến tận
miền quê mới Cửu Long Giang và dấu vết còn in đậm nét suốt từ đèo Hoành Sơn đến
vịnh Hà Tiên. Đó là niềm tự hào không của riêng người Thanh Hóa.
Vì khuôn khổ
bài báo có hạn, ở đây không thể đi sâu, còn nhiều vấn đề của thổ âm - thổ ngữ
Thanh Hóa sẽ bàn đến trong dịp khác.
Hoàng Tuấn Phổ (đăng lại bài trên báo Thanh Hóa
)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét