13 thg 2, 2018

MÈO ĐẾN THÌ KHÓ, CHÓ ĐẾN THÌ GIÀU

Ảnh minh hoạ: Sưu tầm
Hoàng Tuấn Công
Xưa kia, ngày đầu năm thường có những chú chó vô chủ, vì hoảng loạn “chạy pháo” Tết rồi quên đường về. Đói khát, chúng lần mò vào làng tìm thức ăn. Chỉ cần mon men đến đầu ngõ nhà ai, những chú chó lạc này sẽ được chủ nhà dụ vào, cho ăn uống tử tế, và nếu “ưng bụng” ở lại, nó sẽ được chủ nhà sẵn lòng “cưu mang”. Ngược lại, hễ thấy bóng con mèo lạ đến nhà, thì lập tức sẽ bị chủ nhà hò hét đánh đuổi. Ấy là quan niệm dân gian, bất kể ngày Tết hay ngày thường “Mèo đến thì khó, chó đến thì giàu”.

Các sách từ điển thành ngữ tục ngữ Việt Nam đều không thấy giải thích nghĩa đen, mà chỉ diễn giải nội dung: “Mèo nhà khác đến nhà mình thì khó làm ăn, trái lại chó nhà khác đến thì nhà mình sẽ làm ăn thịnh vượng [theo mê tín]” (“Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam” của Nhóm Vũ Dung-Vũ Thuý Anh-Vũ Quang Hào); “Mèo tự tìm tới nhà ai thì nhà ấy rồi sẽ trở nên khốn khó; chó tự tìm tới nhà ai thì nhà ấy rồi sẽ trở nên giàu sang” (“Từ điển tục ngữ Việt”-Nguyễn Đức Dương); “Mèo nhà khác đến nhà mình thì khó làm ăn, ngược lại, chó nhà khác đến nhà mình thì sẽ làm ăn thịnh vượng” (“Thành ngữ tục ngữ Việt Nam”-Bùi Hạnh Cẩn-Bích Hằng-Việt Anh); hoặc như từ điển của GS Nguyễn Lân chỉ “giải thích” ngắn gọn “Lời nói dị đoan không có căn cứ”!
          Tuy nhiên, đã có không ít bài viết giải thích câu tục ngữ này. Đáng chú ý là bài “Lý giải “Mèo đến thì khó, chó đến thì sang” (kienthuc.net), dẫn ý kiến của nhiều nhà nghiên cứu:
 -GS.TS Ngô Đức Thịnh, cho rằng, tục ngữ bắt nguồn từ “những câu chuyện về con chó liên quan đến cả một triều đại của Lý Công Uẩn”. Như năm Lý Công Uẩn sinh ra (Giáp Tuất-974), ở quê ông có con chó đẻ con sắc trắng, đốm lông hình chữ "Vương" trên lưng. Năm Lý Công Uẩn dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long lại có con chó mẹ từ núi Ba Tiêu, châu Bắc Giang, bơi qua sông Cái, rồi lên ở trên núi Nùng, đẻ được một chó con, đến năm Nhâm Tuất, hai chó đều hóa, nơi này sau dựng "Chính điện đài".
-Ths Vũ Đức Huynh, cho rằng, “dân gian dựa vào đặc tính của 2 con vật này mà sáng tạo ra tục ngữ”. Ví như, chó là con vật trung thành, có trí nhớ tốt,khi chó đến nhà là nhà có kẻ canh nhà, giữ của, biểu hiện của thần giữ của nên sẽ giàu có”. Ngược lại với chó, mèo khi có ăn thì ở lại, không có ăn bỏ đi, “thể hiện sự mất của và người ta quan niệm mèo đến là mang điều xui, sự nghèo hèn...”. Mặt khác (vẫn theo Ths Vũ Đức Huynh) còn có sự ảnh hưởng của “trường khí”, tức “giống mèo rất khoái các khu vực có bức xạ hay trường khí xấu. Ngược lại, con chó lại khoái các khu vực vị trí có bức xạ, trường khí tốt”, v.v…
Điều thú vị là người Trung Quốc cũng có câu y hệt “Mèo đến thì khó, chó đến thì giàu” (Miêu lai cùng, cẩu lai phú-貓來窮狗來). Theo đó, họ quan niệm, mèo vô chủ (lưu lãng miêu-流浪貓) tự nhiên đến nhà, là điềm gia chủ sắp đến vận bần cùng; ngược lại, chó vô chủ (lưu lãng cẩu-流浪狗) tự dưng đến nhà, là điềm gia chủ sẽ được giàu có. Và họ cho rằng, điều này không hẳn là mê tín. Nguyên do thời xưa, chỉ có nhà giàu, nền nhà mới lát gạch; còn nhà nghèo nền đất thô sơ, chuột bọ đào hang hốc trú ngụ rất nhiều. Đó chính là lý do khiến mèo để mắt tới nhà nghèo. Trong khi nhà giàu, bữa ăn thường có thịt, mà chó thì cực thính mũi, nên nó tìm đến nhà sung túc. Theo đó, chó hoang, chó vô chủ tự dưng tìm đến nhà ai, tựa như một sự tiên đoán về vận tài phú của gia chủ. Tục ngữ Hán có câu “Con không chê mẹ xấu, chó không chê nhà nghèo” (Nhi bất hiềm mẫu xú, cẩu bất hiềm gia bần-兒不嫌母醜, 狗不嫌家貧). Vẫn theo cách giải thích của người Trung Quốc, chó là người bạn trung thành nhất của con người. Chó sủa “wàng”, giống âm của chữ “vượng” , đồng nghĩa cát tường, tài phú sẽ đến. Trong khi con mèo kêu “miāo” (), giống như âm chữ “miè” (diệt);  “méi” (một), đều mang nghĩa là “tiêu tan”, “mất mát”, “chết chóc”(*). Bởi vậy, mèo hoang đến nhà là điều tối kỵ. Theo đó, người Trung Quốc còn có câu “Chó đến thì tiền tài, mèo đến thì tang ma” (Cẩu lai tài, miêu lai hiếu-狗來財, 貓來孝)… Trong khi đó, dân gian Việt Nam cũng có một hướng giải thích tương tự: tiếng chó sủa “gâu gâu”, “giâu giâu”, gần giống như “giầu, giầu”; tiếng mèo kêu “ngheo ngheo” gần giống như “nghèo nghèo”, nên có chuyện kiêng kị. Ngoài ra, nếu như tiếng sủa của chó, hoặc sự hiện diện, đồng hành của con chó luôn đem đến cho người ta cảm giác yên tâm, vững tin, kể cả trong đêm tối; thì tiếng kêu, gào của con mèo trong đêm vắng vẻ, hoặc ở những ngôi nhà hoang, lại giống như tiếng ma hờn, quỷ khóc rợn người. Mèo có tập tính tựa như sống nửa hoang dã. Chúng xuất hiện đột ngột, bất thình lình nhảy vụt qua tựa như những bóng ma.
Cách giải thích dựa trên tập tính của các con vật, dù của dân gian Trung Quốc hay Việt Nam, theo chúng tôi là có cơ sở thực tế.
Trở lại với cách diễn giải và giải thích của các nhà biên soạn từ điển và nghiên cứu văn hoá dân gian Việt Nam.
Các nhà biên soạn từ điển diễn giải “chó nhà khác”, “mèo nhà khác” đến nhà mình; hay “mèo tự tìm đến nhà ai”, “chó tự tìm đến nhà ai”, theo chúng tôi là chưa rõ nghĩa. Bởi “mèo”, hay “chó” ở đây phải hiểu là những con mèo, con chó hoang, vô chủ (đúng như cách hiểu của người Trung Quốc là “lưu lãng miêu”; “lưu lãng cẩu”), chứ không phải là mèo, chó của “nhà khác”. Có nghĩa, những con mèo, con chó hoang này xuất hiện như một “thiên sứ” báo hiệu lành dữ cho gia chủ thì mới linh. Theo đó, cũng là chó mèo đến nhà, nhưng là chó mèo hàng xóm (biết rõ chó mèo có chủ), thì người ta có thể sẵn sàng đánh đuổi cả hai (để tránh chúng ỉa bậy, ăn vụng…), chứ không có chuyện đón đợi, mừng rỡ. Thế nên, dân gian có câu “Ai nuôi chó một nhà, ai nuôi gà một sân”, để tỏ ý hàng xóm láng giềng phải nên thông cảm cho nhau, nếu chó, gà nhà này lỡ sang nhà khác gây chuyện phiền toái là vậy.
Với cách giải thích của GS.TS Ngô Đức Thịnh, theo chúng tôi, nội dung câu tục ngữ đơn thuần xuất phát từ quan niệm dân gian, chứ không liên quan đến những yếu tố “cung đình” (cụ thể ý kiến những câu chuyện về con chó liên quan đến cả một triều đại của Lý Công Uẩn” của ông). Bởi đó là điềm “sinh thánh đế”, liên quan đến yếu tố phong thuỷ (trong định đô ở Thăng Long), chứ không phải chuyện tài phú, bần hàn theo quan niệm dân gian. Trong khi đó, yếu tố lịch sử chỉ được GS.TS Ngô Đức Thịnh “lắp ghép” vào vế sau câu tục ngữ (“chó đến thì giàu”), còn vế đầu (“mèo đến thì khó”), đã không được ông lý giải (theo nguyên tắc, cũng phải xuất phát từ một sự tích, hay truyền thuyết lịch sử nào đó liên quan đến con mèo). Mặt khác, GS.TS Ngô Đức Thịnh giải thích ra sao, khi người Trung Quốc cũng có quan niệm tương tự?
Rất khó xác định người Trung Quốc đã vay mượn câu tục ngữ của người Việt Nam, hay ngược lại. Bởi quá trình giao lưu văn hoá, hoặc đặc điểm sinh hoạt, cư trú của các dân tộc gần nhau, có thể xuất hiện những sản phẩm văn hoá, vật chất giống nhau. Điều đó có thể do vay mượn, ảnh hưởng lẫn nhau, nhưng cũng có thể là những sáng tạo độc lập. Chuyện giống nhau chỉ là ngẫu nhiên. Ví như, dân gian Trung Quốc, và Việt Nam cùng căn cứ tiếng sủa của chó, mèo để suy đoán, (dù theo hai cách khác nhau, nhưng cuối cùng đều dẫn đến ý nghĩa giống nhau).
Bởi thế, theo chúng tôi, câu tục ngữ “Mèo đến thì khó, chó đến thì giàu”, chỉ có thể tồn tại, lưu truyền được ở Trung Quốc, khi nó xuất phát từ chính sự quan sát, chiêm nghiệm của dân gian Trung Quốc về tập tính của hai loài vật nuôi chó và mèo (giống như dân gian Việt Nam), chứ không thể đơn thuần xuất phát từ tích truyện “Cẩu Nhi” (chỉ có ở Việt Nam).
Nhiều câu tục ngữ mang màu sắc thần bí, khó giải thích, vốn xuất phát từ những quan sát rất cụ thể của dân gian. Tuy nhiên, vì trải qua nhiều đời lưu truyền, điều kiện kinh tế, phong tục tập quán đã thay đổi, những nguyên nhân cụ thể cứ lu mờ dần, rồi chìm vào màn sương huyền bí. Chuyện giải thích cho rành rẽ không hề đơn giản. Tuy nhiên, dù đoán già đoán non, đưa ra nhiều cách giải thích, cũng nên lựa chọn cách giải thích nào mang tính biện chứng, có lý nhất, chứ không nên gán ghép cho dân gian một cách dễ dãi, khiên cưỡng. Câu tục ngữ “Mèo đến thì khó, chó đến thì giàu” là một ví dụ điển hình.
                             Hoàng Tuấn Công/Xuân Mậu Tuất 2018

2 nhận xét: