Hoàng Tuấn Công
PGS.TS Nguyễn Công Lý cho biết:“Khi giải nghĩa từ, chủ yếu chúng tôi
dựa vào Hán Việt từ điển của học giả Đào Duy Anh, Từ
điển tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học do GS. Hoàng Phê chủ biên
và Đại từ điển tiếng Việt của Trung tâm ngôn ngữ và Văn hoá
Việt Nam-Bộ Giáo dục và Đạo tạo do GS. Nguyễn Như Ý chủ biên”.
-Tham khảo cách giải nghĩa trong 3
cuốn Từ điển, tổng hợp thành cách giải nghĩa chính xác, dễ hiểu nhất, phù hợp
với trình độ, khả năng tiếp thu của giáo viên, học sinh.
-Ngoài tham khảo 3 cuốn Từ điển, bằng
kiến thức ngôn ngữ, văn hóa lịch sử, phương pháp sư phạm và kiến văn của mình,
thầy Lý sẽ cập nhật, bổ sung thêm thông tin, đưa ra cách giải nghĩa chính xác,
đầy đủ, tạo điều kiện thuận lợi cho việc dạy và học của giáo viên, học sinh.
-Cuối cùng, (ít nhất) Thầy cũng tham
khảo rồi “chọn” (chép lại) một trong ba cách giải nghĩa chính xác, phù hợp nhất
của 3 cuốn Từ điển.
Nhưng, có lẽ thầy Lý cho rằng, đã là
từ “Hán Việt” thì phải căn cứ vào “Hán Việt từ điển” tham khảo mới
chính xác. Bởi vậy, Thầy cứ “Đào Duy
Anh” mà chép [1] Mà từ điển của cụ Đào Duy
Anh thì sao? Đây là cuốn Hán Việt từ điển
giản yếu thuộc diện cổ xưa nhất ở
Việt Nam. Cổ tới mức nào? Sách biên soạn xong 1931, xuất bản lần đầu 1932, (trước
cả cuốn Hán Việt tự điển-Thiều Chửu
xuất bản sau đó 10 năm-1942) tái bản nhiều lần, không sửa chữa bổ sung. Bởi
vậy, Từ điển này không chỉ thiếu nhiều từ, tự (như chúng tôi đã chỉ ra trong kỳ
I bài viết) mà cách hiểu, cách dùng từ Hán Việt nói riêng và từ ngữ tiếng Việt
nói chung thời điểm đầu thế kỷ XX so với bây giờ đã khác đi nhiều. Chúng ta có thể dẫn một số từ trong sách do
NXB Trường-Thi ấn hành năm 1957 (tại Sài Gòn) và bản do NXB Khoa học xã hội-tái
bản năm 2000 làm ví dụ:
-Vần B, mục từ “Bảo Đại” vẫn còn nguyên nghĩa:
“Hiệu vua nước ta hiện nay
(1924-)”.
-Vần K, từ “Khốn nạn” giải nghĩa “Khó khăn, lúng túng” (nghĩa từ Hán Việt
đầu thế kỷ XX về trước). Trong khi
từ này ngày nay được hiểu: “hèn mạt,
không có chút nhân cách, đáng khinh bỉ,
nguyền rủa” (Từ điển tiếng Việt).
-Từ “bảo dưỡng” cụ Đào Duy
Anh hướng dẫn xem từ: “bảo dục” nghĩa là: “giữ gìn nuôi nấng”. Trong khi "bảo
dưỡng", “Từ điển tiếng Việt” giải nghĩa phù hợp với cách hiểu ngày nay:
“đgt-trông nom, giữ gìn, sửa chữa [thiết
bị, cầu đường,v.v...] khi cần thiết, giữ ở trạng thái có thể sử dụng bình
thường”. (theo tôi, Từ điển tiếng Việt nên bổ sung ý:
bảo dưỡng để giữ cho thiết bị có độ bền sử dụng lâu dài)
v.v...
Nhiều từ, cách giải nghĩa của cụ Đào
Duy Anh chỉ mang tính chất đối dịch,
dùng từ Hán Việt này để giải thích từ Hán Việt khác, nên rất khó hiểu, đặc biệt
là đối với giáo viên và học sinh Trung học cơ sở. (Trong phần Phàm
Lệ, chính cụ Đào Duy Anh đã thừa nhận: “Có khi vì vụ giản tiện hoặc vì tình thế không thể tránh được, mà trong
phần giải thích phải dùng đến từ-ngữ Hán-văn hoặc phải mượn một từ-ngữ đồng
nghĩa mà giải-thích một từ-ngữ khác...”).
Như
vậy, với giáo viên và các em học sinh, người biên soạn không nên sao chép nguyên
xi cách giải nghĩa của cụ Đào Duy Anh, mà tùy từng trường hợp có thể lựa chọn
hoặc đưa ra cách diễn đạt, giải thích phù hợp, dễ hiểu hơn. Tuy nhiên, “giải thích từ ngữ Hán Việt trong sách giáo
khoa” của thầy Lý thực chất là chép lại cách giải nghĩa cách đây gần 1 thế
kỷ. Bởi vậy, đôi khi giống như thầy Lý làm sách cho những người “muôn năm cũ”
dùng vậy. Một vài so sánh, ví dụ:
-Cụ Đào Duy Anh (Đào Duy Anh): “Hoài cổ: nhớ việc đời xưa”.
-Thầy Nguyễn Công Lý (Nguyễn Công Lý): "Hoài cổ: nhớ việc đời xưa.”
Nghĩa Hán-Việt của “hoài” trong “hoài cổ” không phải là “nhớ”
chung chung mà là “nhớ tiếc”. “Từ điển tiếng Việt” (TĐTV) - sách
nằm trong danh mục tham khảo của thầy Lý giải nghĩa cụ thể, sát đúng hơn: “hoài cổ: nhớ tiếc cái đã thuộc về một thời xa xưa. Người già thường hay hoài
cổ”; và “Đại từ điển tiếng Việt”-Nguyễn
Như Ý (ĐTĐTV): “hoài cổ đgt. Luyến tiếc, tưởng nhớ cái thuộc về thời xưa cũ: Bài thơ phảng phất tâm trạng hoài cổ”. Thế
nhưng, một trong hai cách giải nghĩa chính xác này đã không được thầy Lý sử
dụng.
-Đào
Duy Anh: “Tử nạn-Vì quốc gia có
hoạn nạn mà chết”
-Nguyễn Công Lý: “Tử
nạn: chết do giặc giã, loạn
lạc"
Đây
là nghĩa từ dùng của người Tàu (xưa, nay) và “người Ta” hồi đầu thế kỷ XX. Ví
dụ: “Việt Nam tự điển” (Khai trí Tiến đức-Hà Nội): “Tử nạn: Chết vì nạn nước-Trong khi kinh thành thất thủ, nhiều
người tử nạn.” Có lẽ thầy Lý căn cứ vào “Hán Việt từ điển” và “giải thích” “rõ” hơn: “vì quốc
gia có hoạn nạn mà chết” thành “chết do giặc giã, loạn lạc”, nhưng
không tránh khỏi phiến diện, thiếu chính xác. Trong khi nếu theo cách giải
nghĩa của “ĐTĐTV”: “tử nạn đgt. Chết do giặc giã, loạn lạc. (cũ); tử nạn đgt. Chết vì tai nạn. (mới); hoặc “Từ điển tiếng Việt" “Tử nạn: 1.Chết do chiến tranh-nhiều dân thường tử nạn trong cuộc
chiến. (Đồng nghĩa: thiệt mạng). 2.Chết
do tai nạn-12 học sinh đã tử nạn trong vụ đắm đò”, sẽ chính xác,
đầy đủ hơn. (Ví dụ của TĐTV nghe “ghê” quá !)
-Đào Duy Anh: “Cầu toàn trách bị: Cầu cho được toàn, trách cho được đủ,
cố ý bắt buộc người khó làm xong”.
-Nguyễn Công Lý: “Cầu toàn trách bị: Cầu cho
được toàn, trách cho được đủ. Ý nói: cố ý
bắt buộc người khác làm xong”.
Đây
lại là một thành ngữ được “Hán Việt từ điển” giải nghĩa đơn
giản theo kiểu “đối dịch”. (trường
hợp này cụ Đào Duy Anh gọi là: “vì
vụ giản tiện hoặc vì tình thế không thể tránh được, mà trong phần giải thích
phải dùng đến từ-ngữ Hán-văn hoặc phải mượn một từ-ngữ đồng nghĩa mà giải-thích
một từ-ngữ khác...”). Chữ “trách” 責 có
nghĩa là yêu cầu, đòi hỏi, đã không
được cụ Đào giải nghĩa, đến lượt thầy Lý tiếp tục để nguyên. Bởi vậy “trách cho được đủ” trở nên rất
khó hiểu với giáo viên và học sinh. Mặt khác, nguyên văn cụ
Đào Duy Anh viết: “..., cố ý bắt buộc
người khó làm xong”, khi chép lại, không biết do thầy Lý nghĩ cụ
Đào viết sai nên sửa chữ “khó” thành chữ “khác” (hay do chép sai,
in sai ?). Thế là ý cụ Đào: Ai đó cố ý đưa ra yêu cầu khắt khe, mọi thứ phải thật hoàn hảo để gây khó khăn,
khiến cho người khác khó thực hiện, khó làm
cho xong, thầy Lý lại biến thành: “...cố
ý bắt buộc người khác làm xong (!)
Về thành ngữ “Cầu toàn trách bị” , “Từ điển tiếng Việt” giải nghĩa dễ hiểu
hơn: “Cầu toàn: đòi hỏi hoàn toàn tốt, hoàn toàn trọn vẹn, theo ý muốn chủ quan của
mình. Cầu toàn trách bị [cũ] như cầu toàn [nhưng nghĩa mạnh hơn]”.
-Đào
Duy Anh: “Phỏng
vấn 訪問: Hỏi
thăm”.
-Nguyễn Công Lý:
“Phỏng vấn: Hỏi thăm để nắm tình
hình, nắm vấn đề”.
Đây
cũng là cách hiểu, cách dùng từ của người Tàu (xưa, nay) và người Ta cách
nay gần thế kỷ. Thế nên “Từ điển Việt-Hán”
(phục vụ cho người học tiếng Trung Quốc-NXB Giáo dục-2002-GS Đinh Gia Khánh
hiệu đính) viết: “Thăm
hỏi: 訪問 (phỏng
vấn-HTC phiên âm); thăm nghèo hỏi khổ
訪貧問苦 (phỏng
bần, vấn khổ-HTC phiên âm). Thăm viếng: 探 訪, 拜訪, 訪問 (thám
phỏng, bái phỏng, phỏng vấn-HTC phiên âm).
Trong khi “Từ điển tiếng Việt” giải
nghĩa: “phỏng vấn: Hỏi ý kiến
một nhân vật nào đó để công bố trước dư luận. phỏng vấn vị thứ trưởng; phỏng vấn trực tiếp trên truyền hình”;
và “Đại từ điển tiếng Việt”: “phỏng vấn
đgt.
Hỏi ý kiến một nhân vật nào về một vấn đề được nhiều người quan tâm để công bố
lên đài báo: phỏng vấn Thủ tướng chính
phủ về chính sách đối ngoại, đối nội của chính phủ ~ trả lời phỏng vấn của các nhà báo.” Đây mới chính là “giải thích từ ngữ Hán Việt” cho thầy cô
giáo và các em học sinh nói riêng và người Việt hiện nay nói chung. Còn cách giải nghĩa của thầy Lý nên dành cho
người học Hán ngữ hiện đại, muốn “bút đàm” với người Tàu hoặc người Việt hồi đầu
thế kỷ XX.
Thầy Lý là người đương thời, hàng ngày đọc
sách báo, nghe đài, tiếp xúc với mọi người, dĩ nhiên thừa biết nghĩa những từ
Hán Việt chúng tôi vừa dẫn trên đây không còn (hoặc rất ít) được dùng, được hiểu
trong thực tế. Có người sẽ nói, đó là Thầy giải nghĩa từ Hán Việt trong sách,
chứ không phải từ Hán Việt dùng trong thực tế đời sống. Tuy nhiên, những từ
trên đây thuộc diện được thầy Lý “mở rộng
vốn từ Hán Việt”. Mặt khác, “Lời nói đầu”, thầy Lý đưa ra một số
nguyên tắc dạy, học từ Hán Việt, trong đó đặc biệt nhấn mạnh “Nguyên
tắc thực hành”: “Trong giờ dạy từ
ngữ nói chung, dạy từ Hán Việt nói riêng, giáo viên phải vận dụng nguyên tắc thực
hành thường xuyên qua những bài tập nói, tập viết trình bày suy nghĩ,v.v...Gắn
với đời sống là yêu cầu quan trọng nhất của việc dạy từ ngữ, bởi nó giúp cho
các em mở rộng vốn từ...” Rồi: “Khi
giảng dạy, giáo viên cần có hệ thống bài tập tích cực hóa vốn từ, nhằm làm giàu
vốn từ cho học sinh và giúp các em kỹ năng sử dụng từ đúng, chính xác, hợp văn
cảnh...”
Vậy, liệu các em có thể đem nghĩa của những
từ Hán Việt được dùng cách nay gần thế kỷ mà thầy Lý “giải thích” để thực hành, áp dụng trong cách nói, cách viết ngày
nay được không? Sao Thầy không lựa chọn cách “giải thích” có cả nghĩa cũ và nghĩa mới giống như từ điển để giáo
viên và học sinh tham khảo?
-Đào Duy Anh:
“Minh
khí 冥 器-Những đồ giấy người ta đốt cho người chết”.
-Nguyễn Công Lý:
“Minh
khí: Những đồ giấy (vàng mã) để
đốt cho người chết” (tr.52)
Thầy
Lý đã chép lại cách giải nghĩa thiếu chính xác và không đầy đủ của cụ Đào Duy
Anh. Bởi “minh khí” không chỉ là “đồ giấy”, (thầy Lý chú thêm “vàng mã”) mà còn làm bằng rất nhiều
chất liệu khác; không chỉ “đốt cho người
chết” mà còn tùy táng, (chôn theo
người chết).
Từ và yếu tố Hán Việt trong sách "Giải nghĩa từ và ngữ Hán Việt..." |
Trống minh khí. Ảnh do TS Khảo cổ học Nguyễn Văn Đoàn -PGĐ Bảo tàng Lịch sử, gửi Tuấn Côngthư phòng |
Theo
chúng tôi, từ “minh khí”, thầy Lý nên
tham khảo và chép lấy cách giải nghĩa của “Từ điển tiếng Việt”: “minh khí: vật dụng thu nhỏ tượng trưng cho đồ dùng
hàng ngày, người xưa thường chôn theo trong mộ người chết”, thay vì theo “Hán
Việt từ điển”. (Dĩ nhiên, cũng không nên theo Đại từ điển tiếng Việt: “minh khí dt. Đồ dùng trong việc tang lễ: chuẩn bị minh khí để đưa đám”, vì cách giải nghĩa này chưa chính xác, thiếu cụ thể).
Vậy,
với những từ Hán Việt không có trong từ điển của cụ Đào Duy Anh, thầy Lý tham
khảo hai cuốn từ điển tiếng Việt còn lại thế nào? Chúng tôi thấy, thầy Lý vẫn
với cách làm là chép lại sách này thì bỏ sách kia, không cần biết sách nào có
lý hơn sách nào; hoặc đã chính xác hay chưa. Ví dụ:
-"Đại từ điển tiếng Việt": “sinh
ngữ
dt. Tiếng nói hiện đang được dùng của nhân dân
một nước; trái với tử ngữ: Thế giới có hàng nghìn sinh ngữ”.
-"Từ điển tiếng Việt": “sinh ngữ d 1- ngôn ngữ đang được dùng hiện nay; phân biệt với tử ngữ. 2 [cũ]
ngoại ngữ, về mặt là ngôn ngữ đang được học tập, sử dụng. giờ học sinh ngữ. giỏi sinh ngữ”.
-Nguyễn Công Lý:
“Sinh ngữ: Tiếng nói hiện đang được
dùng của nhân dân, một nước (trái với Tử ngữ: tiếng nói đã chết, không còn dùng
nữa) (tr.57)
Ngữ
hay ngôn ngữ nghĩa là nói, tiếng nói.
Nhưng tiếng nói có khi lại không đồng
nghĩa với ngôn ngữ. (Cũng như vĩ đại nghĩa là to lớn, nhưng to lớn
không có nghĩa là vĩ đại). Trường hợp
"sinh ngữ", “Từ
điển tiếng Việt” giải nghĩa chuẩn,
đầy đủ hơn, nhưng không được Thầy sử
dụng.
Có
những từ, "Từ điển tiếng Việt" giải nghĩa chưa chuẩn, đáng lẽ thầy Lý
phải phát hiện ra và bổ sung, điều chỉnh rồi mới đưa vào sách của mình. Tuy
nhiên, Thầy cũng cứ thế chép lại. Ví dụ “Điền
dã”, nghĩa 2. “Từ điển tiếng Việt” giải nghĩa: “Vùng xa thành phố, là nơi tiến hành những cuộc điều tra, khảo sát trong
nghiên cứu khoa học. đi điền dã; tư liệu điều tra điền dã”.
Cách giải nghĩa này máy móc. Bởi “điền dã” nghĩa là nơi đồng ruộng, thôn dã, nhưng thuật ngữ “điền
dã” lại được hiểu là những cuộc điều tra,
khảo sát, thu thập số liệu từ thực tế, thực địa (không phải từ sách vở, tài
liệu). Và địa bàn “điền dã” có thể
diễn ra ngay tại thành phố, không dứt khoát phải “vùng xa thành phố”. Ví dụ khi nghiên cứu về các di tích, danh thắng
ở Hà Nội, việc khảo sát, tìm hiểu, thu thập số liệu, diễn ra ngay ở khu vực hồ
Hoàn Kiếm vẫn được gọi là “điền dã”
như thường. (PGS.TS Nguyễn Công Lý hướng dẫn luận văn, luận án nhiều, chắc hẳn
hiểu rõ điều này).
Thế
nhưng, thầy Lý cứ thế chép lại:“Điền dã: 2.Vùng xa thành phố, và là nơi
tiến hành tại chỗ những cuộc điều tra, khảo sát khoa học”
v.v...
Ngoài
ra, nhiều mục từ, tự, thầy Nguyễn
Công Lý cứ “tiện tay” chép liền liền theo từ điển của cụ Đào Duy Anh mà không
quan tâm nó có ích gì đối với giáo viên và học sinh hay không. Thầy cũng không
so sánh, tham khảo xem sách nào đúng, sách nào chưa đúng, hay diễn đạt lại cho
dễ hiểu hơn. Ví dụ, ngoài từ “cận”
近 nghĩa là “gần”, thầy Lý liệt kê một loạt “Từ đồng âm khác nghĩa” (chính xác phải
gọi là yếu tố Hán Việt (chữ Hán) đồng âm,
khác nghĩa. Có lẽ muốn cho ngắn gọn nên thầy Lý gọi là “từ” cả) như: “cận 饉-mất mùa, đói không có rau ăn; cận 覲-yết
kiến người trên; cận 槿-một
loài cây...”. Từ “ái” nghĩa là yêu, Thầy còn kể đến: “ái
靄
-mây đen, mây mù”...; “tiếu”
笑 ngoài nghĩa “cười”, Thầy còn kể: “tiếu
峭-Dáng
núi cao lởm chởm; Nghiêm khắc”; “tiếu
肖-giống
nhau, như nhau”. Cũng xin nhắc lại: nhiều mục từ, yếu tố Hán Việt có từ, tự đồng âm rất thông dụng, nhưng thầy
Lý lại kết luận không có (như chúng tôi đã nói trong kỳ I).
Sách của thầy Lý có tên “Giải
thích từ ngữ Hán Việt...”. Nghĩa là Thầy sẽ không dừng lại cách “giải
nghĩa” ngắn gọn của Từ điển mà sẽ “giải
thích”, giảng giải kỹ lắm. Tuy
nhiên, thực tế lại hoàn toàn ngược lại. Sách của Thầy chỉ nặng về liệt kê, sao chép theo “Hán
Việt từ điển” giản yếu của cụ Đào Duy Anh là chính, và loại bỏ hoàn
toàn bước phân loại từ Hán Việt, trích dẫn, ví dụ mà các nhà biên soạn từ điển
tiếng Việt đã dày công đưa vào minh họa. Ví dụ:
-“Từ điển tiếng Việt”: “Vệ
quốc đgt bảo vệ tổ quốc. chiến tranh vệ quốc; d [kng] vệ quốc quân [nói tắt] gia nhập vệ quốc”.
-Sách của thầy Lý: “Vệ
quốc-bảo vệ giữ gìn tổ quốc”
-“Từ điển tiếng Việt”:
“tâm can d tim và gan, được coi là biểu tượng của những tình cảm sâu kín tận
đáy lòng của con người, nói chung-thấu hiểu
tâm can; bày tỏ tâm can”.
-Sách của thầy Lý: “tâm
can-Tim và gan”.
...,v.v...
Giá
như thầy Lý bớt những mục từ và yếu tố Hán Việt không cần thiết, để giải thích kỹ hơn và lấy (hoặc giữ lại) ví dụ
cách dùng những từ Hán Việt ấy cho giáo viên và học sinh sẽ tốt hơn nhiều (thầy
Lý làm công tác giảng dạy, tất sẽ hiểu phương pháp sư phạm quan trọng tới mức
nào).
Chỉ chừng ấy dẫn chứng cũng đủ thấy phần lớn
các từ, ngữ Hán Việt trong 3 cuốn sách “Hán Việt từ điển”; Từ điển tiếng Việt; Đại
từ điển tiếng Việt dường như chưa hề “đi qua” tư duy, nghiền ngẫm, chắt lọc để trở thành kiến thức nhuần nhuyễn của
thầy Lý, mà “chạy” thẳng tuột vào
sách “Giải
thích từ ngữ Hán Việt...”. Bởi thế món "ăn dặm" “từ và ngữ Hán Việt trong sách giáo khoa...”
của thầy Lý chẳng những nhiều “hạt sạn” mà kiến thức hãy còn rất sống sượng. Nếu
thầy và trò cứ theo cách “Giải nghĩa từ
ngữ Hán Việt” của thầy Lý mà thi đua “dạy tốt học tốt” thì “bổ dưỡng” chưa
thấy đâu, nhưng kiến thức ngày càng bị còi đi mà thôi... [2].
Đến đây, hẳn độc giả sẽ đặt dấu hỏi: vậy,
thầy Lý không có chút gì gọi là kiến thức của riêng mình để "trình
làng" hay sao? Thưa rằng có. Vì bài đã dài nên chúng tôi xin được nói đến
trong phần III, cũng là phần cuối loạt bài “Những sai lầm của PGS.TS Nguyễn
Công Lý trong sách “Giải nghĩa từ và ngữ
Hán Việt trong sách giáo khoa Ngữ văn Trung học cơ sở”.
HTC/10/11/2014
Chú thích:
[1]-Sau khi đăng kỳ I: Những sai lầm
của PGS.TS Nguyễn Công Lý trong sách “Giải thích từ ngữ Hán Việt...” có độc giả góp ý với chúng tôi,
nên dùng từ “sai sót”, dùng “sai lầm” nghe “nặng nề” quá. Còn nhớ
tháng 9/2013, chúng tôi gửi bài “Những sai sót của Nguyễn Đức Dương trong từ điển tục ngữ Việt” cho Tạp chí Văn
hóa dân gian-Viện nghiên cứu Văn
hóa-Viện KHXH Việt Nam. Chúng tôi dùng từ “sai sót” vì “đề phòng” sách báo, tạp chí xuất bản
ngại đụng chạm, “kiêng” những từ chỉ đích danh, nêu đúng bản chất vấn đề. Tuy
nhiên, Ban biên tập Tạp chí này đã đề nghị sửa “sai sót” thành “sai lầm”
bởi (theo BBT) xét thấy vấn đề không chỉ dừng ở mức độ “sai sót” thường gặp (có vẻ “không khí” trao đổi học thuật ngày
càng được cởi mở hơn?) Với sách “Giải thích từ ngữ Hán Việt trong sách giáo khoa Ngữ văn Trung học cơ sở”, theo chúng tôi thầy Lý sai về
phương pháp luận, kéo theo hàng loạt cái sai mang tính hệ thống khác. Bởi vậy, chúng
tôi xin được giữ nguyên từ “sai lầm”
thay vì “sai sót” mà độc giả đề nghị.
[2]-Lưu ý độc giả, cuốn sách này PGS.TS
Nguyễn Công Lý biên soạn dành cho đối tượng là giáo viên và học sinh trung học
cơ sở. Bởi vậy, nếu giáo viên căn cứ vào sách để tham khảo giảng dạy, cái
sai, cái thiếu chính xác sẽ được truyền đạt theo cấp số nhân.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét