II. HỒN PHÁCH VÀ SINH TỬ
Hoàng Tuấn Phổ
Theo
quan niệm thông thường, người ta ai cũng có hồn phách, khi chết, phách bị tiêu
tan cùng thể xác, chỉ còn hồn không thể mất. “Thác là thể xác, còn là tinh anh” (Tinh anh cũng tức là linh hồn).
Tuy nhiên, trong thực tiễn đời sống con người và xã hội, vấn đề Hồn phách lại biểu hiện không hề đơn
giản. Bởi người Việt Nam từ nghìn xưa chịu ảnh hưởng qua lại của nhiều luồng tư
tưởng văn hóa phương Đông và phương Tây: Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo, Ấn Độ
giáo, Công giáo,...rồi giữa hai cuộc đại chiến thế giới nổi lên một số hiện
tượng xã hội: Cao Đài, Hòa Hảo,...
Nho
giáo không đề cập vấn đề Hồn phách, nhưng
trong thâm tâm các nhà nho mấy ai không tin thuyết “Linh hồn bất tử”. Phật
giáo, có lẽ do sinh thời Phật Thích-ca chỉ nói mà không viết, nên sau khi ngài
mất, chia ra nhiều tông phái khác nhau. Học thuyết cơ bản của Phật giáo là luân
hồi, nhân quả, đều không thừa nhận linh hồn bất tử, phủ nhận cả thượng đế toàn
năng. Vì thế, Công giáo kịch liệt đả phá chủ nghĩa vô thần của Phật giáo, khẳng
định đức Chúa Trời sáng tạo vũ trụ, sinh ra muôn loài vạn vật. Khi chết, linh
hồn con người về nước chúa để hầu chúa, loài vật chỉ có “giác hồn” tiêu tan cùng thể xác. Do đó, tín đồ Công giáo không thờ
cúng ông bà, cha mẹ. Lão giáo tôn thờ Lão tử làm giáo chủ, sự thực là lợi dụng
uy tín Lão tử xây dựng Đạo giáo để đối trọng với Nho giáo và Phật giáo. Nhưng
chính các đạo sĩ lại vận dụng thuyết Âm Dương của Dịch học Nho giáo và thuyết
Luân hồi Địa ngục của Phật giáo. (Nhiều người nói Nho học, Nho gia chỉ bàn về
Hình nhi hạ, về Nhân sinh quan, không bàn về Hình nhi thượng, về Vũ trụ quan,
để cho rằng đạo Nho không phải là tôn giáo). Tính phức tạp của Chu Dịch khiến
mỗi người hiểu một cách, học thuyết trở nên rối loạn - Duy vật thô sơ hay Duy
tâm thần bí? Các thuyết Dịch bốc, Dịch Chiêm, (bói Dịch) tưởng lầm là khoa
học tự nhiên, thực chất là mê tín, dị đoan. Đã không công nhận người ta có linh
hồn, Phật giáo lại đưa ra thuyết Địa ngục,
vậy cái gì bị đầy xuống địa ngục, nếu không phải là linh hồn của con người?
Người
Việt từ lâu đời thấm nhuần sâu sắc tư tưởng Phật giáo và Đạo giáo. Trong lịch
sử, thời nhà Lý, thời nhà Trần, có những lúc, những trường hợp thiền sư và đạo
sĩ là một. Tương tự như vậy, các thời đại sau, không ít nhà sư kiêm nghề phù
thủy, và nhiều pháp sư phù thủy cũng ở chùa tụng kinh gõ mõ, “thờ Phật ăn oản”.
Dân gian ngày rằm mùng một lên chùa thắp hương, niệm Phật, lúc gia đình hữu sự
lại mời thầy phù thủy bắt ma trừ tà. Tư tưởng Phật giáo và Đạo giáo ăn sâu vào
người Việt biến hóa dần thành phong tục tập quán, người người tin theo, nhà nhà
bắt chước. Những tiết lớn trong năm: Nguyên đán, Nguyên tiêu, Đoan ngọ, Trung
nguyên...đều in đậm dấu ấn Phật giáo và Đạo giáo. Cùng một phong tục trồng cây
nêu chiều 30 Tết Nguyên đán để báo cho ma quỷ biết đây là đất nhà Phật không
được đến quấy nhiễu thì truyền thuyết đã trộn lẫn Phật với Đạo. Tết Đoan ngọ tục
nhuộm móng tay, móng chân, đeo bùa lại nặng màu Đạo gia phái Pháp lục. Đặc biệt
tết Trung nguyên rằm tháng bảy, kinh sách nhà Phật đều chép là ngày hội Phật
giáo.
Đó
là ngày hội Vu Lan Bồn (hay Vu Lan
Bồn tiết, Vu Lan Bồn trai) tức là tiết Trung nguyên, dân gian gọi nôm na là
tiết Rằm tháng bảy. Theo Vu Lan Bồn kinh, một trong 10 đại đệ tử
của Phật là Ma-Ha-Mục-Kiền-Liên. Mẹ ông là bà Thanh Đề lúc sống rất độc ác, khi
chết phải tội treo ngược dưới Địa ngục. Tương truyền Mục Liên thần thông quảng
đại muốn cứu mẹ thoát cảnh tội hình, xin đức Phật ra tay cứu độ. Đức Phật bảo:
“Đến ngày rằm tháng bảy, là ngày kết thúc “khóa hạ” của các sư môn (hàng năm
các sư đều phải tập trung đến ăn, nghỉ, học tập tại một nơi suốt ba tháng mùa
hạ để giữ giới luật sát sinh - mùa hạ là mùa sinh nở của sâu bọ, côn trùng cũng
là chúng sinh). Nhà ngươi chuẩn bị đủ trăm thứ đồ ăn uống, cúng dàng 10 vạn tăng chúng để cầu phúc cho mẹ được thoát tội”. Năm
Đại Đồng thứ 4 (538) vua Lương Vũ đế bắt đầu mở hội chay Vu Lan Bồn tại chùa
Đồng Thái, đến thời Đường mới tổ chức khắp nhân gian. Từ đây, tết Trung nguyên
là một ngày hội của Phật giáo, các nhà sư mọi chùa chiền đều tụng kinh niệm
Phật, cầu siêu linh hồn, bố thí chúng sinh.
Ngày
hội Vu Lan Bồn đi vào dân gian hóa thành tiết “Tháng Bảy ngày Rằm xá tội vong nhân”. Người nào cũng nghĩ rằng
người thân lúc còn sống khó tránh tội lỗi, khi chết nếu phải sa xuống Địa ngục
thì hôm ấy cũng được tha thứ, nên lo cúng tế cỗ bàn và vật dùng, hy vọng họ sẽ
tiếp nhận đầy đủ. Ngày tiết chỉ còn
là một tục lệ, dẫu ai không tin cũng làm theo vì tấm lòng con cháu đối với ông
bà, cha mẹ. Nếu ai đã tin (có lẽ chiếm đại đa số) niềm tin ấy vô cùng sâu sắc,
không cần giải thích, chứng minh. Trong sâu thẳm tâm linh của mình, họ tin có
linh hồn bất tử, có thiện ác báo ứng, có thiên đường địa ngục, có “Tháng Bảy
ngày Rằm xá tội vong nhân”.
Quan
niệm hồn phách, hồn vía khá phổ biến trong các tộc người. Nhưng quan niệm của
họ không đơn giản như nhau mà khác nhau đến kỳ lạ. Người Kháng (Tây Bắc Việt Nam)
cho rằng người sống bởi năm hồn: Hồn chính ở đầu, bốn hồn ở tứ chi. Khi chết cả
năm hồn đều thành ma. Hồn ma đầu ngụ
ở trong nhà để phù hộ con cháu (ma ngặt
nhà), hồn tay phải ngụ ở lều canh
nương để coi sóc mùa màng (mati kntor),
hồn tay trái thành ma ở gốc cây làm
quan tài (ma ngặt hóm), hồn chân phải biến thành ma nhà mồ (ma ngặt nhà mớn), hồn chân trái lên trời thành ma trời (ma ngặt xừ ừ). Người Ơ - Đu tin hồn ở trên đầu (cũng như người
Khơ-me, người Ơ-Đu cư trú ở Việt và Lào), vì thế người ta kiêng người khác sờ
vào đầu mình. Lúc chết, hồn lìa xác đi mất, cho nên ngay tối làm lễ mai táng,
ông trưởng họ phải cầm đuốc ra bãi tha ma để rước hồn ma về. Người Bru (ở
Bình-Trị-Thiên) nói người chết có hai hồn: hồn chính vốn ở gốc chỏm tóc trên
đầu ở lại làm ma nhà, gọi là bua đinh, hồn phụ ở thân mình đi với xác ở bãi tha
ma. Người Xơ-Đăng (cư trú ở Gia Lai, Kon Tum) cho rằng người ta chỉ có một hồn.
Khi người mới chết, hồn phải nằm ở nghĩa địa đầu làng, chờ sứ giả của nữ thần
dệt vải đón dẫn tới động của thần. Người La-Ha (cư trú ở Tây Bắc Việt Nam) lại
cho mỗi người có 8 hồn, hồn chủ ở đỉnh đầu, các hồn khác ở mồm, mũi, cầm, hai
tay, hai chân.
Kỳ
lạ hơn, người Mường quan niệm “vía” là hồn người sống, “ma” là hồn người chết,
và mỗi người có những chín mươi “vía”, chia ra bốn mươi “vía” ở bên phải, năm
mươi “vía” ở bên trái!
Người
Việt chịu ảnh hưởng Đạo giáo, thường nói “Tam hồn thất phách” hoặc “Ba hồn bảy
vía”. Tam hồn là gì? Đạo giáo giải thích: Thứ nhất hồn Thái Quang, thứ hai hồn
Sảng Linh, thứ ba hồn U Tinh. Đạo giáo không cho biết rõ công dụng của mỗi thứ
hồn, chỉ nói phép nhiếp tam hồn, một phương pháp tu luyện làm cho thần khí cứng
rắn, tinh hoa tích tụ, thân thể không già yếu. Suy ra ta có thể hiểu hồn thứ nhất
thuộc về thần khí con người, hồn thứ hai thuộc về tinh hoa con người, hồn thứ
ba thuộc về thân xác con người. Dân gian vì không hiểu sâu Đạo học nên giải
nôm: một hồn ở đầu, một hồn ở ngực, một hồn ở chân. Chữ “chân” này không phải
là chân cẳng hay chân với tay mà là chân
thân, cái thân thể đích thực của người ấy. Tục “gọi hồn” và phép “phụ hồn”
không nói rõ gọi hồn nào trong ba hồn hay cả ba hồn, vì chắc chắn họ không đủ
trình độ để hiểu biết. Khi chết, con người chỉ còn một hồn Thái Quang, là tinh
thần, thần khí hay linh khí, tinh anh...riêng của mỗi người. Tuy không còn thể
xác, không còn mắt, mũi, chân, tay...các giác quan để làm chỗ dựa nhưng nó có
khả năng nhận biết tất cả, thế mới gọi là linh
hồn (hồn thiêng).
Theo
tài liệu nghiên cứu của Trung Quốc: Y lý Trung Hoa nói: “Can tàng hồn, phế tàng
phách” (Gan chứa hồn, phổi chứa phách). Từ lý luận ban đầu này, các nhà y học
cổ điển phát triển lên thất phách: tâm phách (tim), can phách (gan), tỳ phách
(tỳ vị: dạ dày, lá lách), phế phách (phổi), thận phách (2 quả thận), khẩu phách
(miệng lưỡi), ý phách (bộ não). Tiến bộ hơn, họ phân định đàn ông có thất
phách, đàn bà thêm thai phách (dạ con và thai nhi), huyết phách (kinh nguyệt)
thành cửu phách. Đạo giáo cũng nói
đến thất phách (không có cửu phách) với những tên gọi khó hiểu: Thi cẩu, Phục
thỉ, Tước âm, Thôn tặc, Phi độc, Trừ uế, Xú phế. Họ nói thất phách là 7 tên quỷ
độc hại trong thân thể con người, và đạo giáo có phương pháp tu luyện để chế
ngự hay diệt trừ chúng, làm cho thân thể nhẹ nhàng sảng khoái bay lên trên
không thành thần tiên, sống mãi không già, không chết.
Cần
phân biệt rõ: thuyết tam hồn thất phách, tam hồn cửu phách của y học nhằm mục
đích chữa bệnh cứu người, thuyết tam hồn thất phách của Đạo học (Đạo giáo)
không ngoài việc tu luyện đắc đạo thành tiên. Thuyết tam hồn thất phách hay cửu
phách của Đông y có giá trị khoa học thực tiễn. Ví dụ họ nói “Can tàng hồn”
cũng như bảo “Can tàng huyết”. Khi người ta nằm ngủ hay mơ chuyện quái đản, ghê
sợ là do ở huyết, huyết kém, xấu mà sinh ra vì “huyết biến vi tà”, phải chữa
bệnh huyết, mà chữa bệnh huyết thì không thể quên chức năng can (gan) bởi “can
tàng huyết” (gan chứa huyết)...
Tục
gọi hồn nhập quan, đàn ông gọi ba hồn
bảy vía hoặc đàn bà gọi ba hồn chín vía, dân gian theo thuyết Đông y là lầm lẫn
lâu ngày thành thói quen, cứ bắt chước lẫn nhau, không ai đặt câu hỏi: tại sao như
thế, như thế đúng hay sai? Cứ lý suy ra, người chết phổi ngừng thở, tim ngừng
đập, máu ngừng chảy, mọi giác quan đều ngừng hoạt động, các tế bào bắt đầu
chuyển sang trạng thái phân hủy bốc mùi xú khí...hồn phách nhập quan để làm gì,
có tác dụng gì? Lại nữa, đàn bà đến tuổi 50 hết kinh nguyệt, thôi sinh đẻ,
không còn thai phách, huyết phách, sao vẫn gọi “chín vía” (cửu phách)? Thuyết
Đông y là cơ sở khoa học trị bệnh, chỉ áp dụng với người sống, đâu còn ý nghĩa
với người chết?
Nếu
theo thuyết Đạo giáo, gọi hồn người chết chỉ nên gọi “Ba hồn bảy vía” đàn ông như
đàn bà. Nhưng Đạo giáo không nói rõ người chết rồi vẫn còn đủ cả “tam hồn thất
phách”, mà “thất phách” là 7 tên quỷ độc tan theo thể xác, và “tam hồn” chỉ tồn
tại hồn Thái Quang tức linh hồn, cái tên thường gọi. Hồn Thái Quang hay linh
hồn không nhập quan trở về với xác chết, nương tựa ở xác chết. Sau khi người
chết vong hồn nương tựa vào thần chủ
và hồn bạch. Thần chủ còn gọi là thần vị, linh vị là miếng gỗ viết tên
tuổi, chức tước người chết để thờ cúng mãi mãi. Nghi thức làm thần chủ của vua,
chúa, quan dân khác nhau. Với dân thường, thần chủ làm theo lối đơn giản đến
mức sơ sài: một thẻ tre hay một miếng giấy viết nguệch ngoạc tên tuổi, cắm vào
lát chuối cây cũng xong. Gia cảnh bần cùng chỉ có bát hương bằng lát chuối cây
với năm ba nén hương còn khó, nói gì linh vị và hồn bạch! Hồn bạch là dải lụa thắt lại giống như hình người đủ 3 phần: đầu,
mình và chân để thu hồn vào đó, khi mai táng rước đi trước linh cữu, rồi chôn
bên cạnh nấm mồ.
Linh
hồn là tinh anh, là khí thiêng của con người, cái tinh thần ấy nếu không mất
cũng không thể “nhập quan”, không thể nhập vào cái xác ô uế, người ta phải đào
sâu chôn chặt!
Hồn
phách cũng là vấn đề cốt yếu của sinh tử. Đức Khổng tử tránh bàn về sinh tử. Ngài nói: “Chưa biết được việc sống, làm sao
biết được việc chết?” (Vị tri sinh, yên tri tử). Nói “tránh bàn” không có nghĩa
bảo Khổng tử không đủ khả năng bàn tới. Vấn đề ở chỗ ngài tự xét thấy mình
không thể đưa ra ý kiến thuyết phục trong tình hình thiên hạ bấy giờ tồn tại cả
hai thuyết “Hữu thần luận” và “Vô thần luận”: Thượng đế sinh ra con người với
linh hồn bất tử hay không có Thượng đế, cũng không có linh hồn bất tử?
Các
nhà sáng lập tôn giáo đều đặt vấn đề sinh tử lên hàng đầu và xem đó là đề tài
thú vị. Người Việt Nam tiếp nhận nhiều tư tưởng tôn giáo, trong dân gian quan
niệm về sinh tử khó tránh mâu thuẫn và phức tạp. Quan niệm khá phổ biến và
tương đối thống nhất: Trời sinh ra muôn loài vạn vật, con người chết không mất.
“Sinh ký tử qui” là câu nói cửa miệng người đời, nhưng thói đời vẫn ham sống sợ
chết, vẫn chúc tụng “Phú quý thọ khang ninh” và không thể biết mình chết về đâu
một cách chắc chắn!
Chúa
Giê-su tạo ra người, vật, cho người có linh
hồn, vật có giác hồn, người chết
tùy theo hành vi lành, dữ mà về nước Chúa, hầu hạ Chúa hay bị đầy xuống hỏa ngục, còn loài vật, giác hồn tan
cùng thể xác. Phật Thích-ca không công nhận thuyết linh hồn bất tử, nhưng lại
đưa ra thuyết đầu thai chuyển kiếp bằng các “Thức” Mạt-na, A-lại-gia, khác gì linh hồn? Dân gian đâu nhớ được,
hiểu được mấy cái “Thức” khó hiểu, khó nhớ ấy, vẫn nói linh hồn đầu thai kiếp khác! Phật giáo truyền vào Trung Quốc ra đời
tông phái Mật giáo cho rằng vạn vật
trong vũ trụ đều do Đại Nhật Như Lai
biến hiện ra. Đại Nhật Như Lai là gì, nếu không phải là một Thượng đế, một Chúa
Trời kiểu khác, mang tên khác?
Câu
“Sự tử như sự sinh, sự vong như sự tồn”
(Sự chết như sự sống, sự mất như sự còn; Cũng được dùng để nói việc thờ cúng: Thờ lúc chết như lúc sống, thờ lúc mất như lúc còn) là một mệnh đề triết lý, thuộc phạm
trù triết học. Nghĩa là sự vật chỉ chết ở dạng này để sinh ở dạng khác, mất ở
nơi nọ lại còn ở nơi kia, như chuyện vua nước Sở đánh mất cây cung, người nước
Sở bắt được, có đi đâu mà mất? Nhưng
dân gian lại dẫn giải theo cách dân gian: Sống
như thế nào, chết như thế ấy! Tức là cũng ăn uống, làm lụng với mọi nhu cầu
như lúc sống! Nói cách khác: cõi Âm là phản ánh trung thực cõi Dương, Âm và
Dương tuy đối lập, mâu thuẫn nhưng vẫn nhất thống trong một khối thống nhất. Đó
là nguyên nhân chủ yếu, chỗ dựa căn bản cho mọi nghi thức cúng tế ra đời và tồn
tại. Mọi học thuyết, đến cả tôn giáo đều do con người mà có, tại sao không phải
chính Thượng đế cũng là sản phẩm của con người?
HTP (Trích "Nguồn gốc, ý nghĩa tang lễ người Việt"-NXB Thanh Hóa)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét