Lúa vụ xuân ở Thanh Hoá 2018 Ảnh: HTC |
HOÀNG TUẤN CÔNG
-“Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam” (GS.
Nguyễn Lân): “Chiêm khôn hơn mùa dại Người tốt mà dại thì thua thiệt kẻ xấu mà khôn”.
-“Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam” (Nhóm
Vũ Dung): “Chiêm khôn hơn mùa dại. (chiêm khôn: thứ gạo chiêm già nắng, hạt nhỏ
và đanh; mùa dại: thứ gạo mùa hạt to và đục). Một kinh nghiệm chọn gạo: thường
gạo mùa hơn gạo chiêm, nhưng gạo chiêm vẫn ngon hơn thứ gạo mùa xấu”.
-“Từ
điển tiếng Việt” (New Era): “Chiêm khôn hơn mùa dại. Một kinh nghiệm
chọn gạo là lệ thường gạo mùa hơn gạo chiêm, nhưng gạo chiêm ngon thì vẫn hơn gạo
mùa xấu”.
Theo chúng tôi, cả ba cách giảng trên
đây đều chỉ là phỏng đoán, suy diễn.
Với GS. Nguyến Lân, tại sao “chiêm khôn” lại hiểu thành “người tốt mà dại”, còn “mùa dại” lại có nghĩa là “kẻ xấu mà khôn”?
Với Nhóm Vũ Dung và New Era, cách giải thích không
có cơ sở thực tế. Quả tình, tục ngữ có câu “Chiêm hơn chiêm sít, mùa ít mùa nở”,
ý nói gạo chiêm không ngon, cứng và ít nở so với gạo mùa (“Gạo mùa treo chái
chùa cũng chín”). Tuy nhiên, không có cơ sở nào để khẳng định “chiêm khôn” và “mùa dại” được dùng với
nghĩa “gạo ngon” và “gạo xấu”. Mặt khác, nếu muốn đúc kết kinh nghiệm chọn gạo,
theo ý gạo chiêm ngon, vẫn hơn gạo mùa mà “xấu”, thì dân gian sẽ dùng phép ngoa
ngôn, ví như: “Thà ăn gạo chiêm ngon, chẳng thà ăn gạo mùa xấu” (tương tự “Thà
ăn vảy trốc, chẳng thà ăn ốc tháng tư”; “Thà ăn muối, chẳng thà ăn chuối chết”,
v.v…).
Thực ra, câu này nói về thời vụ cấy
lúa và kinh
nghiệm đầu tư sản xuất nông nghiệp.
Ngày trước, người ta xem thời vụ sản xuất vụ
Mùa (còn gọi vụ Mười-thu hoạch vào tháng Mười) tốt hơn vụ Chiêm (còn gọi vụ
Năm-thu hoạch vào tháng Năm).
“Từ điển
bách khoa nông nghiệp”, mục “lúa mùa” cho biết: “Trước kia, lúa mùa cho năng suất cao hơn
lúa chiêm, nhưng hiện nay lúa mùa có năng suất thấp hơn năng suất lúa đông-xuân
và lúa hè-thu”.
Trong sách “Xứ Đông Dương”, Paul
Dumer cũng chép như sau: “Nam Kỳ chỉ có
một vụ thu hoạch lúa mỗi năm; Bắc Kỳ thì có hai vụ. Vụ thu hoạch quan trọng
nhất là vào tháng Mười theo lịch An Nam, rơi vào tháng Mười một; vụ kia vào
tháng Năm theo lịch An Nam, rơi vào tháng Sáu”.
Học giả Charles Robequain trong sách “Le Thanh Hoa” (“Tỉnh
Thanh Hoá”, G.VAN xuất bản lần đầu bằng tiếng Pháp 1929; Nguyễn Xuân Dương - Lâm Phúc
Giáp dịch - NXB Thanh Hoá - 2012) ghi chép rất rõ: “Các vùng đất thấp, do vị trí của chúng, gần như chỉ dành riêng cho lúa
và khắp mọi nơi đều làm hai vụ, vụ tháng 10 thường tốt hơn vụ tháng 5 một chút;
tuy thế trong hầu hết các tổng ở Hà Trung, Bắc Hậu Lộc (tổng Chi Nê), phía Tây
Nga Sơn (tổng Cao Vịnh và một phần tổng Mậu Lâm) vụ tháng 5 tốt hơn; ở phía Bắc
Hà Trung nữa (tổng Nam Bạn, Trung Bạn, và Đông Bạn), trên phần lớn các đất bị
ngập lâu ngày không thể cấy được vụ lúa Thu (tháng 10) và trong các tổng khác
của phủ này, các ruộng thấp cấy vào mùa Xuân phòng hạn hán thường bị mất vì úng
thuỷ vào tháng 7 tháng 8 hoặc tháng 9”.
Như vậy, chỉ với vùng đất quá thấp, sâu trũng
như Hà Trung, Hậu Lộc (Thanh Hoá), thì xưa kia (thậm chí ngay cả hiện nay),
người ta mới xem vụ chiêm là vụ chính (vì nếu làm vụ mùa, sẽ bị mất trắng do
ngập lụt). Theo đó, hiện nay ở vùng trũng Hà Trung, sau khi gặt xong vụ chiêm, thì
nông dân không gieo cấy vụ mùa, mà để lại gốc rạ để tiếp tục thu hoạch lúa
chét.
Charles Robequain viết tiếp: “ở phía Nam sông Mã, tại Quảng Xương và Tĩnh
Gia, có cồn cát cao hơn chỉ trồng được hoa màu cạn và ở đây vụ Chiêm kém hẳn vụ
Mùa. Trong các vùng trũng, nhiều ruộng một năm cấy được hai vụ, nhưng vụ Hè
thường bị hao hụt bởi khô hạn và chỉ bằng vụ Mùa trong một vài dải đất sét hẹp
như ở phía Tây Sầm Sơn”. Và ông kết luận: “Nói chung năng suất lúa theo hecta vụ Mùa cao hơn vụ Chiêm”.
Điều này được khẳng định trong thực tế, trước
kia lúa mùa thường chiếm diện tích nhiều nhất trong cả nước. Mặt khác, ở vụ mùa,
người ta gieo trồng rất nhiều giống lúa, nhiều phương thức canh tác khác nhau
(gieo thẳng, cấy), trên các loại chân đất khác nhau, mà thông thường lúa vụ chiêm
không cấy được do bị hạn hán thiếu nước. Vì trên một số chân đất bỏ trổi vụ
chiêm (do thiếu nước) nên đất được nghỉ, đến khi canh tác vụ mùa, lúa cho năng
suất cao hơn cũng là điều dễ hiểu.
Hiện nay, do tưới tiêu đã chủ
động, nên vụ lúa chiêm (nay gọi là vụ xuân) lại cho năng suất cao hơn hơn vụ
mùa. Nguyên nhân, vụ mùa thường được gieo cấy ngay sau vụ xuân kết thúc, nên đất
không có thời gian nghỉ. Trong khi, sau thu hoạch mùa, đất được cày ải và nghỉ
trong ba tháng vụ đông, nên đến vụ xuân lúa được cung cấp nguồn dinh dưỡng dồi
dào hơn. Mặt khác, vụ chiêm cũng ít sâu bệnh và thiên tai bão lụt so với vụ
mùa. Bởi vậy, đây là một trong những câu tục ngữ, mà nghĩa đen của nó không còn phù hợp với thực tế sản xuất nông nghiệp ngày nay nữa.
Trong số các cuốn từ điển chúng tôi có trong
tay, “Từ điển tục ngữ Việt” (Nguyễn
Đức Dương) giải thích không đến nỗi sai nặng như cách suy diễn của ba cuốn từ
điển đã dẫn, nhưng vẫn chưa đúng ý dân gian:
“Chiêm khôn hơn mùa dại: Vụ chiêm mà bội thu thì lượng thóc thu về sẽ
nhiều hơn là vụ mùa thất bát (tuy năng suất chiêm thường kém xa so với lúa mùa)”.
Theo đó, vụ chiêm bội thu thì sẽ hơn vụ mùa thất bát, điều đó là quá hiển nhiên
rồi, cần gì phải tổng kết thành tục ngữ?
Như vậy, câu “Chiêm
khôn hơn mùa dại”, ý dân gian là: Vụ mùa tốt hơn vụ chiêm, nhưng nếu vụ chiêm
mà cày cấy kịp thời, biết đầu tư chăm sóc [“khôn”] thì vẫn tốt hơn vụ mùa có điều kiện thuận lợi, nhưng không
cần cù, không đầu tư chăm sóc[“dại”].
Nghĩa bóng: trong điều kiện khó khăn, nhưng nếu biết cách khắc phục, thì vẫn
cho kết quả tốt hơn so với có điều kiện thuận lợi, mà không biết tận dụng phát huy.
HTC/6/2018
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét