HOÀNG TUẤN CÔNG
6. GS Nguyễn Lân giảng: “rau muống tháng chín nàng dâu nhịn cho mẹ
chồng ăn (Tháng chín thì rau muống tàn lụi, rất hiếm) Có ý nói:
Thức ăn hiếm, nàng dâu tốt dành cho mẹ chồng.
Song cũng có người cắt nghĩa trái lại, cho rằng: Rau muống tháng chín cứng, nàng
dâu chẳng ưa mẹ chồng dọn cho mẹ chồng ăn”.
Chúng tôi đã đưa ra ý kiến “Có thể loại trừ cách lý giải thứ nhất, lựa
chọn cách thứ hai”, bởi cách hiểu thứ nhất không có cơ sở thực tế. Vì “rau muống tháng chín” không ngon, mà
cũng chẳng lành (đây cũng là đặc điểm của nhiều loại rau quả “trái tiết” khác).
Từ xa xưa, dân gian ý thức rất rõ điều đó, nên rau quả trái mùa không bao giờ được
ưa chuộng, thậm chí bị coi là độc[2].
Bởi vậy, trong sách “Từ
điển tiếng Việt của GS. Nguyễn Lân-Phê bình và khảo cứu”, chúng tôi đã phân
tích: “rau muống
là rau mùa hè, ưa nước mát (mùa hè nắng nóng, mưa rào xen kẽ, có lượng đạm trời
dồi dào, rau muống mới tươi non, ngon ngọt). Tháng chín trời trở lạnh, bắt đầu
mùa khô hanh, rau muống già có hoa, ăn vừa cứng vừa chát, hiếm mà
không quý”.
Mùa nào thức ấy, rau muống đã “tàn
lụi” theo mùa, dẫu có sót lại ít cọng rau già, ăn không thể ngon được! Trong
khi, chính GS. Nguyễn Lân cũng thừa
nhận “tháng chín thì rau muống tàn lụi, rất
hiếm”.
Thế nên, chúng tôi đưa ra quan
điểm: “Cùng một thành ngữ, tục ngữ nhưng có nhiều cách hiểu, đưa ra nhiều cách giải
thích là chuyện bình thường, thậm chí là rất cần thiết, nếu như những cách hiểu ấy có lý. Tuy nhiên, với cách hiểu sai thì không nên
đưa vào xem như một cách hiểu tồn tại song song. Ví dụ trường hợp
câu tục ngữ đang xét, bằng kiến văn,
người biên soạn có thể định hướng cho bạn đọc loại trừ cách hiểu sai. Tuy
nhiên, GS Nguyễn Lân lại lựa chọn cách hiểu sai (thứ nhất) là chính, còn cách
hiểu đúng (thứ hai) chỉ là tham khảo”. [lưu ý, nhiều cách hiểu, nhưng phải là
cách hiểu có lý].
Tuy
nhiên, Thanh Hằng dẫn lời GS. Nguyễn Đức Tồn, cho rằng “không phải lúc nào rau muống khan hiếm cũng là rau già”. Nhưng GS
Nguyễn Đức Tồn cần lưu ý, thời điểm cụ thể dân gian nói đến là “rau muống tháng chín”, đâu phải “lúc
nào” chung chung?
Theo đây, để bác bỏ quan điểm của chúng tôi, GS Nguyễn Đức Tồn phải
chứng minh được rằng, “rau muống tháng chín” vừa khan hiếm vừa ngon, thậm chí
ngon hơn mọi thời điểm khác trong năm, nên nàng dâu hiền mới nhịn thèm để nhường
cho mẹ chồng ăn (theo như cách hiểu của GS Nguyễn Lân mà GS Nguyễn Đức Tồn đánh
giá là “tích cực”).
Mặt
khác, dù trong thực tế vẫn có những mối quan hệ mẹ chồng nàng dâu tốt đẹp,
nhưng phản ánh tình cảm yêu thương chân thật giữa mẹ chồng nàng dâu, chưa bao
giờ trở thành chủ đề trong thành ngữ, tục ngữ. Ngược lại, mối quan hệ mẹ chồng
nàng dâu luôn hiện lên trong thành ngữ, tục ngữ như là sự “xung đột” dai dẳng
“truyền kiếp”, tới mức thành bản chất: Thật thà cũng thể lái trâu, yêu nhau
cũng thể nàng dâu mẹ chồng; Mẹ chồng không ai nói tốt nàng dâu, nàng dâu đâu có
nói tốt cho mẹ chồng; Mẹ chồng nàng dâu, chủ nhà người ở ưa nhau
bao giờ; Bố chồng là lông con phượng,
mẹ chồng là tượng mới tô, nàng dâu là bồ nghe chửi; Bố chồng là lông lợn hạch,
mẹ chồng là đách lợn lang, nàng dâu mới về là bà hoàng hậu; Dâu vô nhà, mụ gia
ra ngõ; Muốn nói không làm mẹ chồng mà nói; Bắt chấy cho mẹ chồng, thấy bồ nông
dưới bể…
Tóm lại, khi giải nghĩa
câu “rau muống tháng chín nàng dâu nhịn cho mẹ chồng ăn”, mà lấy cách hiểu “thức ăn hiếm, nàng dâu tốt dành cho mẹ chồng”
làm cách hiểu chính thức như GS. Nguyễn Lân là hoàn toàn thiếu cơ sở.
7. Mục từ “vịt xiêm” GS Nguyễn Lân giảng: “vịt xiêm dt GIỐNG VỊT TO, người ta nói nhập từ Thái Lan.
Trong sân nhà có đôi vịt xiêm rất lớn”. (HTC nhấn mạnh).
Chúng
tôi cho rằng, cách giảng của GS Nguyễn Lân, biến hai con (vịt và ngan) thành một
như vậy không đúng, vì “vịt xiêm” là cách gọi
tên con ngan của người miền Nam”,
chứ không phải nó chính là “con vịt”, nhưng là “giống vịt to”, và “nhập từ Thái
Lan” (Xiêm), nên được gọi là “vịt xiêm”. Cũng như con “ngan pháp” mà giải nghĩa là “GIỐNG
VỊT TO, nhập từ Pháp”, thì làm sao chấp nhận được.
Thế nhưng, Thanh Hằng lại cho rằng: “Ở đây, Hoàng Tuấn Công đã tự mâu thuẫn với
mình khi khẳng định “sao
biến hai con thành một được”, nhưng ví dụ của anh thì lại chứng
minh ngan và vịt xiêm là một”!
Theo đây, Thanh Hằng đã không đọc kỹ những gì
chúng tôi viết, hoặc đọc mà không hiểu vấn đề. Vì chúng tôi không đồng ý với
cách giảng “GIỐNG VỊT TO” nhập từ Thái Lan, thì gọi là vịt xiêm (ngan); chúng
tôi đâu có phản đối cách hiểu con ngan
chính là con “vịt xiêm”?
Để “bác bỏ” chúng tôi ở mục “vịt xiêm”, Thanh
Hằng tiếp tục dẫn lời GS. Nguyễn Đức Tồn, cho rằng “GS. Nguyễn Lân đúng, bởi vịt xiêm có gốc từ Thái Lan (từng gọi là
Xiêm). Người miền Bắc gọi con vịt gốc Thái Lan là ngan, còn người miền Nam gọi
là vịt xiêm –cách gọi theo nguồn trong tiếng Việt”. Theo đây, GS Nguyễn Đức
Tồn cũng không hề đọc những gì chúng tôi trao đổi trong mục “vịt xiêm”, nên mới
giảng giải như vậy.
Đáng chú ý, trong “Từ điển từ và ngữ Việt Nam”, mục “vịt xiêm”, GS
Nguyễn Lân giảng là “GIỐNG VỊT TO, người
ta nói nhập từ Thái Lan”; nhưng ở mục “ngan”, GS Nguyễn Lân lại giải thích: “ngan
•
dt. (động) Loài chim thuộc loại (sic) vịt, đầu có mào, thịt đỏ <> Mua con ngan về làm phở”.
Như vậy, nếu như ở mục “vịt xiêm”,
soạn giả đã đồng nghĩa “GIỐNG VỊT TO” với con “NGAN” (“vịt xiêm”), thì khi so
sánh cách giải nghĩa giữa “vịt xiêm” với “ngan”, bạn đọc lại thấy, dường như
“ngan” với “vịt xiêm” là hai con khác nhau (vì cách mô tả, nhận diện khác
nhau).
Trong khi đó, Từ điển Vietlex giải nghĩa “vịt xiêm” và “ngan” như sau: “vịt xiêm
d [ph] xem ngan”; mục “ngan” giải
thích: “ngan • d.
chim nuôi CÙNG HỌ với vịt, nhưng lớn hơn, đầu có mào thịt đỏ”. (“[ph] là viết
tắt “phương ngữ” của Từ điển Vietlex).
Như
vậy, chỉ qua mục “vịt xiêm” và “ngan”, so sánh với “Từ điển tiếng Việt” của
Trung tâm từ điển học Vietlex, bạn đọc đã thấy GS Nguyễn Lân thiếu hẳn kiến
thức cần thiết về từ điển học (đơn giản như là các sắp xếp, giải nghĩa những từ
đồng nghĩa).
8. GS.Nguyễn Lân giảng: “chim trời cá nước ng Nói người ở nay đây mai đó, khó lòng
gặp được: Anh ấy có tính lãng du, chim trời cá nước, biết đâu mà tìm”.
Chúng
tôi cho rằng “thiếu nghĩa: của ở đời, không thuộc quyền sở hữu của riêng ai”.
Tuy nhiên, Thanh Hằng dẫn lời GS. Nguyễn Đức
Tồn cho rằng: “ông chưa nghe thấy nghĩa “của
ở đời, không thuộc quyền sở hữu của riêng ai” cho câu này bao
giờ, mà “Chim trời cá nước” nói về con người tự do, nay đây mai đó, ngược với
“Cá chậu chim lồng” chỉ sự tù túng, bị giam cầm”.
Dĩ nhiên, GS. Nguyễn Đức Tồn “chưa nghe thấy”, không có nghĩa là thực
tế không có thêm cách hiểu ấy. Chúng tôi xin đưa nhanh hai ví dụ chứng minh:
- “Từ điển Việt
Nam phổ thông” (Đào Văn Tập – Nhà sách Vĩnh Bảo, Sài Gòn-1951) thu thập và
giải nghia thành ngữ “chim trời cá nước [chim giời cá nước] • Chim
ở trên trời và cá ở dưới nước. • ngb. Của ở đời, không thuộc quyền sở hữu của
riêng ai”.
-“Từ
điển tục ngữ Việt” (Nguyễn Đức Dương-sách đã dẫn) thu thập câu “Chim trời
các nước, ai được thì ăn”. Tục ngữ thể hiện đầy đủ ý dân gian muốn nhắn gửi, mà
ở dạng thành ngữ “chim trời cá nước” mới chỉ là cách nói mập mờ, “nước đôi: “Chim trời cá nước, ai được thì ăn • Chim trên trời cũng như cá dưới nước ấy mà
(đâu phải của riêng ai mà cứ đòi giữ lấy, bởi thế) ai giỏi thì cứ việc bắt lấy
mà ăn”.
“Chim
trời, cá nước”, hoặc “Chim trời, cá nước, ai được thì ăn” thường được dùng
trong một số tình huống, như:
-Câu trả lời đối với ai đó ngăn cản việc bắt
bẫy cá nước, chim trời, muông thú vô chủ (ví dụ: “Chim trời cá nước, ông lấy
quyền gì mà ngăn cấm tôi?”)
-Lời tự nhủ, hoặc khuyến khích ai đó, thấy
chim trời, cá nước, nhưng còn e ngại, không dám săn bắt (ví dụ: “Ôi dào, sợ gì,
chim trời cá nước, ai được thì ăn, mình có ăn cắp, ăn trộm của ai đâu mà sợ!”)
Thế nên, trong “Hương rừng Cà Mau”, Nhà văn Sơn Nam mới viết: “Đằng này rắn ri voi
thuộc loại chim trời cá nước, ai bắt
được nấy hưởng, khỏi đóng thuế cho sở kiểm lâm” [tập 1, tr.298]; hay, trong “Đất rừng Phương Nam”, Đoàn Giỏi viết:
“Bộ họ nuôi nó sao, chim trời cá nước,
ai bắt được nấy ăn chứ”. [tr.227] (dẫn theo “Từ điển thành ngữ, tục ngữ Việt Nam trong hành chức”-Đỗ Thị Kim
Liên chủ biên-NXB Khoa học xã hội, 2015).
Mặt khác, chính “Từ điển thành ngữ, tục ngữ Việt Nam trong hành chức”, đã ghi nhận một
trong số nhiều nghĩa của “chim trời cá nước” là: “không thuộc quyền quản lý hoặc tài sản của ai cả”.
Theo đây, chúng tôi đâu có bịa thêm nghĩa cho thành ngữ “chim trời cá nước”, thưa GS Nguyễn Đức Tồn?
9. Thanh Hằng viết: “Danh từ “Nội các” được GS.
Nguyễn Lân giải thích là “Hội
đồng Chính phủ của một số nước, gồm thủ tướng và các bộ trưởng”, nhưng
Hoàng Tuấn Công \ cho rằng phải chọn theo nghĩa 2 của từ điển Thiều Chửu là
“tên bộ quan-nội các gọi tắt là các” và Trần Văn Chánh là “Nội các (nói tắt): tổ
các, nội các, tổ chức nội các.”
Sau đó, Thanh
Hằng dẫn ý kiến “không đồng tình” của
“TS. Lã Trọng Long - nguyên Chủ tịch Liên
hiệp các Hội KH&KT Hải Phòng”.
Tuy
nhiên, xin lưu ý Thanh Hằng và TS. Lã
Trọng Long, ở mục “nội các” chúng tôi hoàn toàn không có ý kiến gì về phần
giải nghĩa từ vựng. Chúng tôi chỉ nói
phần giải nghĩa yếu tố Hán Việt “các”
閣 (trong từ “nội các” 內閣). Cụ thể, chúng tôi viết: “Dù cùng có tự
hình là 閣, nhưng “các” 閣 trong “nội các” 內閣, lại là “tên
bộ quan”, chứ không phải “lầu gác” (như GS Nguyễn Lân giảng).
Thế nhưng, TS. Lã Trọng Long lại bàn sang chuyện giải
nghĩa từ vựng “nội các” và nhận xét: “Nếu giải thích như Hoàng Tuấn Công sẽ làm
người đọc hiểu nhầm “nội các” là một quan nhỏ trong triều đình nhà Nguyễn”.
Tương tự như ở mục “lâm bồn”, chúng tôi chỉ bàn đến nghĩa của
2 yếu tố Hán Việt “lâm” 臨, và “bồn” 盆 (trong “lâm bồn” 臨盆), hoàn toàn không nói gì đến nghĩa từ vựng của “lâm bồn”
mà GS Nguyễn Lân giảng. Không lẽ cả TS. Lã Trọng Long và Thanh Hằng đều không làm được điều tối thiểu là đọc
kỹ xem chúng tôi viết những gì, để “trao đổi” lại cho đúng vấn đề cần trao đổi?
10.
Thanh Hằng viết: “Nhà văn Ngô Văn Phú cho
biết, thời điểm cuốn từ điển của GS. Nguyễn Lân ra đời, vốn từ tiếng Việt chưa
phong phú như bây giờ, Việt Nam cũng chưa giao lưu quốc tế rộng như hiện nay.
Vì thế, sai sót hay cách hiểu nghĩa khác với hôm nay là bình thường”.
Chúng
tôi không rõ, Nhà văn Ngô Văn Phú nói “thời
điểm cuốn từ điển GS. Nguyễn Lân ra đời” là thời điểm nào? Không lẽ chỉ mới
từ năm 2000 đến nay, mà tiếng Việt đã có sự thay đổi đến mức khiến cho những từ
ngữ mà GS Nguyễn Lân giảng vốn đúng, nay trở nên sai như vậy sao? Nhà văn Ngô
Văn Phú có thế lấy một vài ví dụ về những từ, ngữ, thành ngữ, tục ngữ, vào thời
điểm năm 1989, hay năm 2000 (khi GS Nguyễn Lân biên soạn và xuất bản sách) được
người Việt hiểu theo một nghĩa, đến nay lại hiểu theo nghĩa khác, được chăng?
Mặt
khác, trong sách “Từ điển tiếng Việt của
GS. Nguyễn Lân - Phê bình và khảo cứu”, chúng tôi đâu có phê phán GS. Nguyễn
Lân về việc “vốn từ tiếng Việt chưa phong
phú”, cũng không hề có ý đòi hỏi tác giả từ điển phải cập nhật những từ mới
sinh ra trong quá trình Việt Nam “giao
lưu quốc tế” gần đây.
Hơn nữa,
“vốn từ tiếng Việt”, hay “giao lưu quốc tế” đâu ảnh hưởng gì đến
việc GS Nguyễn Lân giải thích sai hàng loạt từ, ngữ, thành ngữ, tục ngữ? Phải
chăng ý Nhà văn Ngô Văn Phú, vì “vốn từ
tiếng Việt chưa phong phú”, “chưa
giao lưu quốc tế rộng”, nên khiến GS. Nguyễn Lân khó diễn đạt, giải nghĩa từ
ngữ?
Về nguyên tắc tối thiếu trong trao đổi, tranh luận học thuật, theo
chúng tôi, bản thân người viết cần phải có nền kiến thức cần thiết, để đưa ra
những sở cứ, lập luận của CHÍNH MÌNH (và CỦA MÌNH LÀ CHÍNH), chứ KHÔNG THỂ DỰA
HOÀN TOÀN vào sự “trợ giúp”, “hỏi ý
kiến” người khác, đặt hết niềm tin vào sự tư vấn kiến thức của người khác.
Bản thân những người ‘trợ giúp” đã thiếu cẩn trọng, đưa ra nhận
xét, kết luận đầy cảm tính, chủ quan; đến người được “trợ giúp” lại cũng không
đủ khả năng thẩm định đúng sai. Trường hợp, Hằng Thanh xác định, mình chỉ là người làm báo, phỏng vấn ý kiến các chuyên gia một cách khách quan, mục đích truyền tải thông tin tới bạn đọc, hãy để các chuyên gia tự chịu trách nhiệm về những phát ngôn của mình. Thế nhưng Thanh Hằng không dừng ở chỗ cần dừng, mà dựa hoàn toàn vào những
nhận xét ấy, rồi tự mình đưa ra kết luận “Cuốn sách
‘bắt lỗi’ nhà giáo Nguyễn Lân cũng mắc nhiều sai sót”, hay khẳng định đầy tự
tin “Trên đây chỉ là một vài, chưa phải tất cả, sai sót trong cuốn “Từ
điển tiếng Việt của GS. Nguyễn Lân – phê bình và khảo cứu”.
Khi tranh luận, đã trích dẫn ý kiến của người khác, thì dù ngắn
hay dài, cũng phải đảm bảo trung thực. Tuy nhiên, tác giả Thanh Hằng đã tự ý
chính sửa, thêm bớt, diễn đạt lại ý tứ của chúng tôi theo hướng có lợi cho mình.
Đây chính là điều tối kỵ trong tranh luận học thuật.
Cuối cùng (nhưng là quan trọng
nhất), để đưa ra góp ý, tranh luận, thì điều tối thiểu là bản thân người viết
phải đọc kỹ xem người ta viết gì, sai gì, sau đó tra cứu tài liệu để trao đổi. Tuy
nhiên, trong số 7 điều mà Thanh Hằng và các vị giáo
sư, tiến sĩ cho là chúng tôi “sai sót”, thì
4 điều chúng tôi hoàn toàn không sai (như đã chứng minh trong phần I bài
viết); 3 điều còn lại (“vịt xiêm”; “nội các”; “lâm bồn”) là do Thanh Hằng và
các vị nhầm lẫn, tức chúng tôi viết một đường, các vị lại trao đổi một nẻo;
theo kiểu “Ông nói gà, bà nói vịt”, “Vậu phuối gẳn nà hây loà kha cáy” (Người ta đang nói
chuyện bờ ruộng, mình lại nói chuyện vụt chân con gà)[3].
HTC/5/9/2017
Chú thích:
[1]-Nếu độc giả cần tra cứu,
tìm hiểu câu “rau muống tháng chín nàng
dâu nhịn cho mẹ chồng ăn”, với cách giảng nước đôi của GS Nguyễn Lân, thì độc giả sẽ không biết sai đúng ra sao, nên
tin theo các hiểu nào.
[2]-Sách “Luận ngữ” dành hẳn
một chương (“Hương đảng”) ghi chép về thói quen sinh hoạt, ăn uống khoa học, cách
đây hàng ngàn năm của Khổng Tử như sau: “…Đồ nấu chẳng vừa: chưa chín hay là rục
quá, thì ngài chẳng ăn. Và ngài CHẲNG ĐỂ VÀO MIỆNG NHỮNG VẬT TRÁI MÙA…”.
Dịch giả Đoàn Trung Còn chú giải: “…Đồ nấu chưa chín, nếu ăn vào thì sình ruột; còn nấu rục quá thì mất chất bổ, ăn chẳng ngon. VẬT TRÁI THỜI TIẾT, ĂN VÀO HAY SINH BỆNH…”
Dịch giả Đoàn Trung Còn chú giải: “…Đồ nấu chưa chín, nếu ăn vào thì sình ruột; còn nấu rục quá thì mất chất bổ, ăn chẳng ngon. VẬT TRÁI THỜI TIẾT, ĂN VÀO HAY SINH BỆNH…”
[3] “Từ điển thành ngữ, tục
ngữ Tày” (Triều Ân-Hoàng Quyết-NXB Văn hoá dân tộc, 1996)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét