Hai cuốn từ điển của GS Nguyễn Lân Ảnh: HTC |
HOÀNG TUẤN CÔNG
Ngày 1/9/2017, báo điện tử INFONET (Bộ Thông
tin vàTruyền thông) đăng bài “Cuốn sách
‘bắt lỗi’ giáo sư Nguyễn Lân mắc nhiều sai sót” của Thanh Hằng. Dựa vào ý
kiến của các nhà nghiên cứu, nhà văn, nhà thơ, các giáo sư, tiến sĩ chuyên
ngành ngôn ngữ học, Thanh Hằng cho rằng, tác giả “Từ điển tiếng Việt của GS.Nguyễn
Lân – Phê bình và khảo cứu”, đã “mắc nhiều sai sót”.
Ban đầu, chúng tôi chọn cách im lặng thay câu
trả lời, bởi bài viết của Thanh Hằng đã không đảm bảo những nguyên tắc tối thiểu
trong tranh luận học thuật (chúng tôi sẽ nói rõ ở đoạn cuối của phần II bài viết).
Tuy nhiên, vì không muốn phụ lòng độc giả đã gửi link bài viết của Thanh
Hằng và đề nghị phản hồi(*), nên chúng tôi xin có đôi lời thưa lại như sau:
1.Trong “Từ
điển từ và ngữ Việt Nam”, mục “áo rách vẫn giữ lấy tràng”, GS. Nguyễn Lân
chú giải “Tràng: cái vạt trước của áo dài”. Chúng tôi không đồng ý, và cho rằng:
“Chính xác: “tràng” trong câu tục ngữ này là cái cổ áo chứ không phải vạt trước
của áo dài. Nghĩa là, dù áo rách thế nào, cũng phải giữ lấy bộ phận quan trọng
nhất của cái áo là cổ áo.
Tác giả bài báo Thanh Hằng khẳng định, “tràng”
là “vạt áo”, chứ không có nghĩa nào
là “cổ áo”, và dẫn chứng:
“Nhà văn Ngô Văn Phú – người đã dịch số lượng
lớn thơ Đường và văn xuôi Trung Quốc, trong đó có “Tể tướng Lưu Gù,” cho biết,
GS. Nguyễn Lân đã không sai. “Lĩnh” mới là cổ áo, còn “tràng” là vạt chiếc áo
dài. Trong “Từ điển Hán Nôm” trên thivien.net cũng giải nghĩa “lĩnh là cổ áo”,
không thấy có mối liên quan nào giữa “lĩnh” với “tràng”!
Nhà thơ Đỗ Trung Lai, người đã dịch hàng trăm bài thơ Đường, cũng cho
hay: Tràng là vạt trước của áo dài.
“Từ điển tiếng Việt” của Viện Ngôn Ngữ học do Hoàng Phê chủ biên (tái
bản 1992 và 2003) cũng định nghĩa: “Tràng: Vạt
trước của áo dài”. Ví dụ: “Níu lấy tràng áo mẹ”.
Từ những “bằng chứng” trên đây, Thanh Hằng đi
đến kết luận: “Như vậy, cho đến nay, chưa
thấy từ điển nào định nghĩa “tràng” là cổ áo như Hoàng Tuấn Công giải thích”.
Theo
chúng tôi, thành tích “đã dịch số lượng
lớn thơ Đường và văn xuôi Trung Quốc” của Nhà văn Ngô Văn Phú, hay
“đã dịch hàng trăm bài thơ Đường” của
Nhà thơ Đỗ Trung Lai (mà Thanh Hằng giới thiệu), hoàn toàn không phải là luận
cứ khoa học cho kết luận “tràng” chỉ có một nghĩa duy nhất là “vạt trước của áo
dài”. Và ngay cả khi có tới hai cuốn từ điển giảng “tràng” là “vạt trước của áo
dài”, cũng không có nghĩa tất cả các cuốn từ điển còn lại, đều chỉ ghi nhận có
vậy.
Sau đây là một số minh chứng của chúng tôi:
- “Từ
điển Annam – Lusitan – Latinh” (Dictionanrium Annamiticum – Lusitanum -
Latinum (thường gọi là “Từ điển Việt - Bồ - La”) do A.de Rhodes biên soạn, xuất
bản tại Roma (năm 1651; Thanh Lãng, Hoàng Xuân Việt, Đỗ Quang Chính phiên
dịch-NXB Khoa học xã hội, 1991), giải nghĩa: “TLÀNG ÁO: Phần trên chiếc áo che
cổ.” (“tlàng” là âm cổ của “tràng”, như chính A.de Rhodes ghi nhận trong các
trường hợp khác: “TLÀNG HỘT: tràng hột, chuỗi hột”; “TLÀNG HOA: tràng hoa”…-HTC).
- “Đại Nam quấc âm tự vị” (1896), Huỳnh Tịnh Paulus
Của ghi nhận: “Lãnh 領: Tràng; (…) Áo viên lãnh: Áo cổ tròn, áo cổ trịt” (“lãnh” 領chính là âm khác của “lĩnh” 領 - Hán tự nghĩa là cái cổ áo (như chính Nhà văn Ngô
Văn Phú đã thừa nhận).
- “Việt Nam tự điển”
(1931) Hội Khai Trí Tiến Đức giảng: “領 - lĩnh. Tràng áo (không dùng một mình). Lĩnh tụ 領 袖 tràng áo và tay áo.
Chỉ dùng nghĩa bóng để nói người đứng đầu một đảng-phái: Lĩnh-tụ đảng
xã hội”.
- “Việt ngữ tinh nghĩa từ điển” (1950) Long Điền Nguyễn Văn Minh giải thích “lãnh” là tràng áo, như “lãnh tụ” là “tràng
áo và ống tay áo, chỉ dùng với nghĩa bóng nói người đứng đầu một đảng phái”.
- “Tam
thiên tự” (1969), soạn giả Đoàn Trung Còn thích nghĩa: “Y 衣 - Áo; Lãnh 領 - Tràng”.
- Trong “Ngũ thiên tự” (bản Hán - Việt -
Pháp), Đoàn Trung Còn chú rõ hơn: “領-
lãnh (lĩnh) - tràng (cổ áo) - Col”.
Như vậy, không phải “cho đến nay, chưa thấy từ điển nào định nghĩa “tràng” là cổ áo”, mà
ngược lại (và ít nhất) từ 366 năm trước, “Từ điển Việt - Bồ -La” đã ghi
nhận “tràng” là “cổ áo”; cũng không phải chỉ có một, mà (ít nhất đến thời điểm
này) có tới 6 cuốn từ điển ghi nhận và giải nghĩa “tràng” là “cổ áo”. Thậm chí,
chưa cần tới trình độ “dịch hàng trăm bài thơ đường”, mà chỉ cần đọc qua một
lượt sách “Tam thiên tự” (Ba ngàn chữ Hán, dùng cho lớp đồng ấu) đã có thể
biết, “tràng” (cổ áo) trong tiếng Việt, chính là “lĩnh” 領 trong Hán ngữ.
Theo đây, chúng tôi đâu dám làm một việc tày
trời là tự bịa ra cho “tràng” một nghĩa không hề có trong tiếng Việt.
2. Từ "Áo cứ tràng..." đến "Áo rách phải giữ lấy tràng"
Ngoài hai ý kiến của Nhà văn Ngô Văn Phú và Nhà thơ Đỗ Trung Lai, Thanh Hằng còn dẫn ý thêm kiến của GS. Nguyễn Đức Tồn. Ông Tồn cho rằng, "tràng" trong "Áo cứ tràng, làng cứ xã" và “Áo rách vẫn giữ lấy tràng” (đúng ra là “Áo rách PHẢI giữ lấy tràng”, đồng nghĩa: “Giấy rách phải giữ lấy lề”-HTC), đều có nghĩa là "vạt áo". Cụ thể ông Tồn: "Tràng là vạt phía trước của chiếc áo dài, có vai trò quan trọng cả về thẩm mỹ và chức năng che những bộ phận quan trọng nhất của người mặc nên mới có câu 'Áo rách vẫn giữ lấy tràng.' Còn cổ áo không liên quan gì ở đây".
Thực ra, “tràng” (đầy đủ là “tràng vạt”),
cũng có một nghĩa là “vạt trước của áo dài” [trong câu “Sụt sùi giở nỗi đoạn
trường, Giọt châu tầm tã đẫm tràng áo xanh.” (TKiều)]. Tuy nhiên, “tràng” trong
câu “Áo rách phải giữ lấy tràng” (Áo dù
rách ở đâu, nhưng phải giữ cho cái cổ áo được lành lặn); hay “Áo cứ tràng,
làng cứ xã” (Áo cứ cổ áo mà cầm; làng cứ
lý trưởng mà nắm) lại có nghĩa là “cổ áo”, chứ không phải “vạt áo”.
Tại sao vậy?
Về
kết cấu, cổ áo là bộ phận mấu chốt, căn bản nhất của cái áo. Bởi vậy, để cầm
nắm cho gọn gàng, giũ cho chiếc áo phẳng phiu, người ta đều phải cầm lấy cổ áo
(thế nên “lĩnh tụ” 領袖 [lĩnh
= cổ áo; tụ = tay áo] được dùng để chỉ nghĩa người đứng đầu một phong trào, một
đảng phái là vậy. Về vấn đề này, chúng tôi đã có bài khảo cứu đăng trên báo “Người
lao động” và Blog Tuấn Công Thư phòng-6/2017).
Cổ
áo (và vai áo) là phần dễ rách nhất của chiếc áo (do cọ xát, thấm mồ hôi
nhiều). Về mặt thẩm mỹ, cổ áo là bộ phận gắn liền với khuôn mặt, trực tiếp tôn
vẻ đẹp của khuôn mặt. Điểm nhìn chủ yếu khi giao tiếp, là khuôn mặt, với cái
nhìn từ ngực áo trở lên cổ áo, chứ không phải là phần vạt áo. Bởi vậy, một cái
áo bị rách cổ, hỏng cổ, coi như bỏ đi, vì nếu mặc, sự rách rưới đó sẽ đập ngay
vào mắt người đối diện. Thậm chí, cổ áo tuy lành, nhưng người mặc để xộc xệch, nửa
gấp vào trong, nửa lận ra ngoài, sẽ bị coi là ăn mặc luộm thuộm, thiếu tề chỉnh,
rất khó coi. Thế nên, áo rách chỗ nào thì rách, đừng để rách cổ. Áo rách cổ,
hỏng cổ, kể như không còn là chiếc áo nữa. Nghĩa bóng là dù trong hoàn cảnh nào,
sa sút, nghèo khó đến đâu, cũng phải giữ được nề nếp, gia phong, những giá trị
cơ bản trong đạo làm người. Thế nên Dân gian còn nói: “Áo rách phải giữ lấy
tràng, Đủ đóng đủ góp với làng thì thôi” (Áo dù rách ở đâu, cũng phải giữ được
cái cổ áo cho lành lặn; cũng như gia cảnh dù nghèo hèn đến mấy, cũng phải tham
gia, đóng góp đầy đủ với công việc chung của làng).
Có
thể lấy thêm một ví dụ sinh động về tầm quan trọng của chiếc cổ áo. Với người
Mường, các cô con gái thường may sẵn rất nhiều váy áo để dành đến khi lấy chồng.
Tuy nhiên, lúc sắp đi làm dâu, thì áo mới được viền cổ, váy mới được tra cạp.
Áo chưa làm cổ, coi như chưa thành áo; váy chưa tra cạp, coi như chưa thành váy
(dẫu có lúc “bí”, muốn lấy ra mặc, cũng không mặc được). Bởi vậy, thành ngữ
Mường “Ào lúa đà t’ra coỏc” (Áo lụa đã viền cổ) chỉ những người con gái đã đi
lấy chồng, đã đem những chiếc áo quý, để dành lâu nay ra viền (may, tra) hoàn
chỉnh cổ áo để sử dụng. (xem “Thành ngữ
Mường” – Cao Sơn Hải – NXB Văn hoá thông tin-2013).
Trong
khi đó, vạt áo là bộ phận không bao giờ bị rách trước cổ và vai (vì vạt áo
không chịu sự cọ xát khi vận động, cũng không bị thấm mồ hôi mặn). Bởi vậy, nếu
áo đã rách vai, rách cổ, thì dẫu không cần “GIỮ”, vạt áo vẫn lành lặn như
thường. Mặt khác, xét về phương diện thẩm mỹ và kết cấu, thì vạt áo không phải
là điểm nhấn quan trọng nhất của chiếc áo, càng không phải bộ phận mấu chốt của
áo. GS Nguyễn Đức Tồn cho rằng vạt áo có “chức năng che những bộ phận quan
trọng nhất của người mặc” là thiếu cơ sở. Vì vạt áo chỉ phủ ở phần ngoài từ cạp quần trở xuống.
Theo đó, chức năng che “bộ phận quan
trọng nhất của người mặc” chính là cái quần, chứ không phải vạt áo (trừ
trường hợp người mặc áo cởi truồng).
Tục
ngữ cũng có câu “Áo dài chớ ngại quần thưa”. Trong trường hợp đặc biệt này,
toàn bộ phần dưới của chiếc áo dài (chứ không phải mình “tràng” = vạt trước áo
dài) sẽ che bớt cái sự “hở hang”, do khiếm khuyết của cái quần thưa, quần
rách tạo ra. Dĩ nhiên, lúc này câu tục ngữ phải là “Quần rách (hoặc quần thưa),
phải giữ lấy tràng”, chứ không phải “Áo rách phải giữ lấy tràng” nữa.
3. Thanh Hằng viết: “Bàn về thành ngữ: “Chó
già, gà non,” Hoàng Tuấn Công cho rằng, GS. Nguyễn Lân giải thích “thịt chó già không tanh, thịt gà non
mới mềm” là sai, vì theo anh “câu này không có ý khen 2 món ăn đều ngon như cách hiểu
của GS. Nguyễn Lân, mà là 2 thứ không ngon. Thịt chó già thì dai nhách, còn gà
non thì chỉ để nấu cháo”.
Ở mục này, Thanh Hằng đã trích dẫn
không trung thực. Nguyên văn, chúng tôi viết: “Câu này không có ý khen hai món ăn đều
ngon như cách hiểu của GS Nguyễn Lân. Ngược lại, chó già, gà non đều là hai
thứ không ngon. Chỉ
cần xem các quán thịt chó trương tấm biển Cầy
tơ bảy món cũng đủ hiểu. Cầy tơ chính là thịt con chó tơ. Thịt chó già
dai nhách, ăn làm sao ngon được? Còn gà non chỉ phù hợp để nấu cháo”.
Theo
đó, Thanh Hằng đã tự ý chỉnh sửa từ ngữ, nội dung đoạn trích (được đưa vào
ngoặc kép), đồng thời bỏ hẳn đi hai câu rất quan trọng trong lập luận của chúng
tôi. Nghĩa là
để phản biện ý cho rằng, “chó già” mới ngon, chúng tôi đã dẫn chứng lời chào
mời hấp dẫn của các nhà hàng Cầy tơ bảy
món. Đây là cứ liệu rất quan trọng, vì nó cho thấy kinh nghiệm ẩm thực này
đã được số đông thừa nhận; thịt “chó già” không bao giờ được ưa chuộng. Có
nghĩa, nếu GS Nguyễn Lân đúng, thì tất cả các nhà hàng thịt chó phải đổi tấm biển
“Cầy tơ bảy món”, thành “Chó già bảy món” mới phải. Tuy nhiên, khi trích dẫn,
Thanh Hằng đã bỏ ý này đi, khiến lý lẽ của chúng tôi thiếu sức thuyết phục.
Câu “Ngược lại, chó
già, gà non đều
là hai thứ không ngon” của
chúng tôi, bị Thanh Hằng diễn đạt lại thành “MÀ LÀ 2 thứ không ngon”.
Tiếp đến, hai câu “Thịt chó già dai nhách, ăn làm sao ngon được? Còn gà non chỉ PHÙ HỢP
để nấu cháo”, của chúng tôi, bị Thanh Hằng sửa thành “Thịt chó già THÌ dai nhách, còn gà non THÌ
chỉ để nấu cháo”. Chúng tôi đâu có viết “MÀ LÀ”, đâu có dùng hai chữ “THÌ” trong
cùng một câu, lủng củng như Thanh Hằng trích dẫn? Mấy chữ “CHỈ PHÙ HỢP” cẩn trọng
của chúng tôi, qua ngòi bút của Thanh Hằng, bỗng trở thành “chỉ để”. Mặt khác, "Chó già, gà non" chúng tôi xếp vào loại "tục ngữ", chứ không phải "thành ngữ", như Thanh Hằng viết.
4. Thanh Hằng viết: “Các nhà văn Hà Phạm Phú, Ngô Văn Phú và Văn Chinh đều cho rằng “Chó
già, gà non” là thành ngữ nói về ẩm thực. Việc Hoàng Tuấn Công áp đặt thêm vào
từ “thiến”, thành câu “Chó thiến
già, gà thiến non” thật khó thuyết phục!”
Thực ra, “Hoàng Tuấn Công” đâu dám tự tiện “áp đặt thêm” cho câu tục ngữ dân gian “từ thiến”! Bằng cứ, nếu các vị chịu khó
gõ câu tục ngữ “Chó thiến già, gà thiến non” vào google, thì sẽ ra
hàng loạt kết quả trùng khớp văn bản tục ngữ và nghĩa mà chúng tôi đã giải
thích. Ngoài ra, “Từ điển tục ngữ Việt”
(Nguyễn Đức Dương-NXB Tổng hợp TP Hồ Chí Minh-2010) cũng thu thập dị bản “Chó
già, gà non”, sau đó hướng dẫn độc giả xem cách giải thích dị bản đồng nghĩa “Chó hoạn già, gà hoạn non: chó thì nên hoạn
khi đã già; gà thì nên hoạn khi còn non (mới mong khỏi bị lại giống)”.
5. Thanh Hằng viết: “Theo GS. Nguyễn Đức Tồn, “Chó già, gà non” là câu khá mơ hồ
nếu tách khỏi ngữ cảnh. Nếu nói về ích lợi thì có thể hiểu là nên chọn chó già
vì có kinh nghiệm trông giữ nhà, còn gà non để nuôi sẽ thu hoạch tốt hơn. Nếu
nói về ẩm thực, chó già (nhưng không phải là già “khú đế”) sẽ dai, có độ ngậy
và ngon; gà tơ ăn mới ngon. Như vậy, tùy theo ngữ cảnh mà vận dụng”.
Tuy nhiên, “Chó già, gà non” chỉ “mơ hồ” đối
với người không hiểu kinh nghiệm sản xuất của nông dân, chứ không hề mơ hồ đối
với chính người nông dân, hoặc với những ai đã từng am hiểu thực tế.
Đối với chó, thông thường người ta chỉ thiến
khi nó đã ở độ tuổi thành thục (đã biết giao phối tốt). Vì theo kinh nghiệm dân
gian, lúc này, bộ phận tinh hoàn và mào tinh hoàn của chó đã phát triển đầy đủ,
rõ ràng, dễ bóc gọn, lấy hết. Trong khi, nếu chó thiến non, lúc này tinh hoàn
chưa phát triển đầy đủ, mào tinh hoàn (còn gọi "tinh hoàn phụ") chưa có (vì nó phát triển chậm hơn tinh
hoàn). Thế nên, dẫu bóc được tinh hoàn non rồi (điều này rất khó), thì mào tinh
hoàn (sẽ hình thành sau này), vẫn kích thích tính hăng và ham muốn giao phối
của con chó đực (cho dù chó không còn khả năng truyền giống). Bởi vậy, với chó
thì phải “thiến già” mới tốt.
Với gà, dân gian thường thiến non (cụ thể lúc
mào gà bắt đầu có màu đỏ tía, cất tiếng gáy te te, muốn “đạp mái”). Lúc này,
“dái gà” đã hình thành đầy đủ, nhưng hệ thống mạch máu và các dây chằng chưa
nhiều; khoảng cách từ vết mổ đến vị trí “trứng dái” hãy còn đủ ngắn để với ngón
tay đến mà moi nó ra một cách trọn vẹn, ít gây đau và mất máu cho gà.
Ngược lại, nếu để gà già rồi mới thiến, lúc
này các tổ chức như dây chằng, mạch máu ở cuống “dái gà” đã phát triển, rất dai
và chắc. Gà già (đã to lớn), nên khoảng cách từ vết mổ đến buồng “trứng dái”
cũng đã xa, ngón tay với vào rất khó chạm đến nơi (khi thiến gà, người ta thực
hiện theo phương pháp “nội soi”, tức thò ngón tay vào moi “dái gà” bên trong,
chứ không thực hiện “mổ phanh” bên ngoài như thiến chó).
Bởi vậy, nếu thiến gà già (“trứng dái” to,
cuống dai), khi “cấu” được hai hòn “dái gà” ra, thì hay bị sứt, bị sót. Thậm
chí có những con gà thiến già, bị chảy máu trong nhiều, bỏ ăn, rồi chết. Trong
khi đối với chó, kể cả những con chó đã “đi đực” nhiều năm, lang thang khắp
làng trên xóm dưới, người ta sợ mất, mới đem thiến, vẫn rất an toàn.
Mặt khác, đối với gà, nếu xác định không để
làm giống, thì người ta phải thiến sớm để vỗ béo, chứ không ai để gà già, đi
đạp mái khắp xóm, rồi mới thiến. Với những con trống già loại thải, thì người
ta thịt luôn, chứ không ai còn đem thiến để vỗ béo nữa.
“Chó già, gà non” (“Chó thiến già, gà thiến
non”) là vậy.
Do đã thuộc “nằm lòng” ý nghĩa câu tục ngữ, nên dân gian tạo ra dị
bản rút gọn, chỉ còn mang tính quy ước “Chó già, gà non”, thay vì “Chó thiến
già, gà thiến non”. Giống như câu “Khôn chi khôn trẻ, khoẻ chi khoẻ già”, được
rút gọn thành “Khôn trẻ, khoẻ già”. Những câu này chỉ “mơ hồ” đối với người
không hiểu mà thôi!
Tục ngữ nói về kinh nghiệm sản xuất được đúc
kết từ thực tế sản xuất của nhân dân. Bởi vậy, để hiểu được nó, phải dùng chính
kinh nghiệm thực tế ấy để soi sáng, chứ không thể ngồi mà đoán già, đoán non
được. Theo đó, chính cách gán cho tục ngữ “Chó già, gà non” một số nghĩa như: “nên chọn chó già vì có kinh nghiệm trông
giữ nhà, còn gà non để nuôi sẽ thu hoạch tốt hơn”; hay “nói về ẩm thực, chó già (nhưng không phải là già “khú đế”) sẽ dai, có
độ ngậy và ngon” của GS Nguyễn Đức Tồn mới là “mơ hồ”.
Vì sao vậy?
Vì trông giữ nhà là bản năng của con chó nhà.
Hễ thấy người lạ, từ chó con đến chó lớn, chó tơ đến chó già đều sủa vang; vừa
sủa vừa xông vào cắn dữ dội, “đẩy lùi” sự “xâm nhập” của kẻ lạ mặt. Bởi vậy, đâu
cần phải đợi đến lúc già, con chó mới “tích luỹ” được “kinh nghiệm trông giữ
nhà”? Mặt khác, giống “chó ta” đa phần đều chỉ luyến chủ, quen nhà, khi được
chủ nuôi từ nhỏ. Không ai đi chọn mua con chó già nhà khác về để nuôi giữ nhà, với mục đich khai thác "kinh nghiệm trông giữ nhà" của nó, như cách tưởng tượng của GS Nguyễn Đức Tồn.
Với nuôi gà cũng tuỳ. Nếu ấp nuôi từ gà con
lên, sẽ giảm tiền mua giống, nhưng tỉ lệ hao hụt đầu con lớn (vì gia súc, gia
cầm non dễ chết); trong khi nếu mua loại gà nhỡ, hay đã mọc đuôi tôm về nuôi,
thì tỉ lệ chết sẽ ít, nhưng tiền đầu tư giống lại cao. Bởi vậy, không có căn cứ
để nói “gà non để nuôi sẽ thu hoạch tốt
hơn”.
Tóm lại, nếu quý vị đem câu tục ngữ “Chó già,
gà non” (“Chó thiến già, gà thiến non”)-một kinh nghiệm thiến chó, thiến gà-để
áp dụng cho “văn hoá ẩm thực”, chúng tôi không
phản đối. Vì đó là sở thích ăn uống riêng của quý vị. Nhưng nếu nói
rằng, dân gian đã truyền dạy kinh nghiệm ăn uống như vậy, thì trước sau chúng
tôi vẫn bảo lưu ý kiến: dân gian không dại dột như thế. Những món khoái khẩu từ
ngàn đời mà dân gian đã tổng kết, chính là “Cầy tơ bảy món”, “Cơm chín tới, cải
ngồng non, gái một con, gà nhảy ổ đẻ”. Còn “Chó già, gà non” đơn giản chỉ là
kinh nghiệm lựa chọn thời điểm thiến chó, thiến gà mà thôi!
HTC/9/2017
(Hết phần I. Mời độc giả đón đọc phần II vào
tối 5/9/2017)
(*)-Bài viết “CUỐN SÁCH ‘BẮT LỖI” GIÁO SƯ NGUYỄN
LÂN MẮC NHIỀU SAI SÓT” của Thanh
Hằng vốn trước đó đã được gửi cho GS Nguyễn Lân Dũng; GS Nguyễn Lân Dũng gửi
cho nhiều người; nhiều người lại “chuyển tiếp” cho chúng tôi. Sau khi bài chính
thức đăng trên INFONET, và trang cá nhân của Thanh Hằng (FB Hằng Thanh), bạn
đọc lại tiếp tục dẫn link bài đề nghị chúng tôi có phản hồi. Bởi vậy, chúng tôi
có bài viết này, mục đích thưa lại cho rõ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét