HOÀNG TUẤN CÔNG
Siêu nhân châu chấu Minh hoạ: Sưu tầm |
Trong bài phú “Hoàng trùng trập khởi” (tạm hiểu là “Dịch
hại hoàng trùng”, tác giả (Khuyết danh), có viết:
“Ăn
muốn ăn cho tiệt, của ông cha gì sắm để mà nghĩ tình dãi nắng dầm mưa;
Phá
muốn phá cho tiêu, vật mồ tổ chi sẵn dành mà đoái sức cày sâu cuốc cạn.
Trăm họ ai ai đều kết oán, giết mỏi tay,
rượt mỏi cẳng, giống bây sinh quá lẹ, một đêm rồi coi thế cũng như;
Nghìn người kẻ kẻ chẳng bị hư, xô hết sức,
đuổi hết hơi, loài bây ở vô nghì, giây phút lại càng thấy y lệ”[1].
“Hoàng
trùng” là giống gì mà phá hại mùa màng ghê gớm đến vậy? Các sách từ điển tiếng
Việt giảng rất khác nhau:
-“Hán Việt từ điển”
(Đào Duy Anh): “hoàng trùng 蝗蟲 Con sâu keo”.
-“Việt Nam tự điển” (Hội khai trí Tiến đức) và “Từ điển tiếng Việt” (Văn Tân chủ biên), đều giảng “hoàng-trùng” là
“sâu ăn lúa”.
-“Từ điển từ và ngữ Việt Nam” (GS Nguyễn Lân), sau khi giảng “hoàng
trùng” là “sâu cắn lúa”, còn chú thêm nghĩa yếu tố Hán Việt: “hoàng: màu vàng; trùng: sâu”.
-“Từ điển tiếng Việt” (Vietlex): “hoàng trùng • 蝗蟲 d.
[cũ] châu chấu, về mặt làm hại mùa màng: lúa
bị hoàng trùng ăn hại”.
-“Việt Nam tự điển” (Lê Văn Đức): “hoàng trùng • dt. (động): X.
Châu-chấu: Giặc hoàng-trùng”.
-“Việt Hán từ điển” (GS Đinh Gia Khánh hiệu đính-NXB Giáo dục, 2003)
mục “châu chấu”, cho nghĩa Hán là “蝗蟲”[hoàng
trùng-châu chấu]; 蚱蜢 [trách mãnh-châu chấu], nhưng đến mục “sâu keo”, sách này lại cũng chú nghĩa Hán tương ứng là “蝗蟲” [hoàng trùng-châu chấu]. Như vậy, “Việt Hán từ điển” đã tiền hậu bất nhất,
hoặc đồng nhất “hoàng trùng”, “châu chấu” với “sâu keo”.
Theo
chúng tôi, trong trường hợp này, từ điển tiếng Việt của Vietlex và Lê Văn Đức
đã giảng đúng. “Hoàng trùng” 蝗蟲 (“Từ điển Hán Anh” [cdict.info]: 蝗蟲 - grasshopper) là
con “châu chấu” (côn trùng thuộc họ châu chấu Acrididae), chứ không phải là
“sâu ăn lúa” nói chung; càng không phải là “con sâu keo” (tên khoa học: Spodoptera
mauritia), như Học giả Đào Duy Anh nhầm lẫn[2].
Mặt khác, “hoàng” trong “hoàng trùng” không phải là “hoàng” có tự hình là 黃 (nghĩa là “màu vàng” như GS Nguyễn Lân giảng), mà là
“hoàng” có tự hình 蝗,
tên gọi tắt (“giản xưng” 簡稱) của
con “châu chấu”.
Phi hoàng 飛蝗 (Châu chấu đá, [bộ "áo giáp" rất cứng]) |
“Từ nguyên” và “Từ hải” đều ghi nhận và mô tả "hoàng" 蝗, “hoàng trùng” 蝗蟲 (tên gọi khác “trách mãnh” 蚱蜢; “hoạnh trùng” 橫蟲) với đặc điểm của con châu chấu. “Hán tự đồ giải tự
điển” (Trung Quốc xuất bản xã tập đoàn, 2012) giảng chữ “hoàng” 蝗 trong “hoàng trùng” 蝗蟲, rõ ràng như sau: “hoàng 蝗: Chữ
Hình thanh. Trùng 虫 biểu ý, triện thư hình giống một con
sâu, biểu thị “hoàng trùng” (châu chấu) là một loại sâu. Hoàng 皇
(huáng) biểu thanh; hoàng 皇 còn có nghĩa là to lớn, biểu
thị hoàng trùng bay thành từng đám, từng đám lớn phá hại mùa màng. Nghĩa gốc là
“hoàng trùng” 蝗蟲 (châu chấu). Hoàng trùng là một loại sâu phá hại mùa
màng, thường bay thành từng bầy, còn gọi là “mã trách” 螞蚱. Mồm
của nó rất cứng và sắc, bay nhảy giỏi, gồm nhiều giống, như: “phi hoàng” 飛蝗 (châu
chấu đá), “đạo hoàng” 稻蝗 (châu chấu lúa), “miên hoàng” 棉蝗 (châu chấu bông)”. [Nguyên văn: “蝗
huáng 形聲字蟲表意篆書之形像條蟲, 表是蝗蟲;皇(huáng)表聲,皇有大義,表示蝗蟲大片大片地危害農作物的害庄稼. 本義 是蝗蟲. 蝗蟲一種吃庄稼的害蟲常常成群飛, 又叫螞蚱. 口器堅硬, 善于飛行 和跳躍, 種類很多, 飛蝗, 稻蝗, 棉蝗等].
Đạo hoàng 稻蝗 (Châu chấu lúa) |
Trong
khi đó, con “sâu keo” (Spodoptera mauritia), Tàu gọi là “thuỷ đạo diệp dạ nga” 水稻叶夜蛾 (sâu đêm ăn lá lúa). Hai chữ “dạ nga” 夜蛾 (sâu đêm) là gọi theo tập tính của sâu
keo, ban ngày ẩn nấp, ban đêm ra gây hại; trong khi “châu chấu” thì ngược lại,
phá hại ban ngày là chính. “Sâu keo” thuộc côn trùng “biến thái hoàn toàn” (tức
trong vòng đời có lúc là sâu, có lúc hoá thành bướm), không chân, không cánh;
còn “châu chấu” thuộc loại “biến thái không hoàn toàn” (tức không hoá bướm, mà
chỉ phát triển từ trứng, đến con non, rồi trưởng thành, có sáu chân khớp và có
cánh bay nhảy). Con “sâu keo”, nếu phát sinh thành dịch, thì cũng chỉ gây hại
trong phạm vi hẹp; còn châu chấu với khả năng bay nhảy giỏi, phạm vi gây hại rất
rộng lớn.
Miên hoàng 棉蝗 (Châu chấu bông) |
Xưa
kia có những năm, châu chấu phát sinh thành đại dịch, bay từng đám vần vũ như
mây giông đen nghịt bầu trời. Châu chấu tới đâu, mùa màng, cây cỏ, các loài thực
vật trọc trụi tới đó. Bởi vậy, “hoàng trùng” được xem là một thứ “giặc” nguy hiểm.
Dịch châu chấu |
Trong “Việt Nam phong tục”, mục “Thuật
trừ hoàng trùng”, Phan Kế Bính viết: “Khi
có sâu hoàng trùng (châu chấu) ăn hại lúa, làm lễ cúng tiễn cho nó đi, rồi cắm
một cái cờ giấy ở đầu địa giới thì nó không dám vào nữa”. Trong bài phú “Hoàng trùng trập khởi”, tác giả dùng
“hoàng trùng” với nghĩa là con “cào cào”: “Cào
cào là giống độc hằng niên…” (Ở đây xin chưa bàn tới chuyện “cào cào” hay
“châu chấu”).
Sâu keo và bướm sâu keo (Ảnh minh hoạ côn trùng trong bài: Sưu tầm) |
Như
vậy, “hoàng trùng” 蝗蟲 là
tên riêng của con “châu chấu”, chứ không phải “sâu keo”, hay “con sâu keo”; cũng không phải là tên gọi các loại “sâu hại lúa”, “sâu cắn lúa” nói chung; “hoàng trùng” càng không phải vừa có nghĩa
là “châu chấu”, vừa có nghĩa là “sâu keo” như “Việt Hán từ điển” đã nhầm lẫn.
Hoàng Tuấn Công/5/2017
Chú thích:
1.Bài
“Hoàng trùng trập khởi” in trong “Nguyễn
Đình Chiểu (thân thế và thơ văn)”, Nguyễn Bá Thế, NXB Tân Việt, Sài Gòn,
1957 (dẫn theo thivien.net). Tuy nhiên, trong “Nguyễn Đình Chiểu toàn tập” (NXB Đại học
và Trung học chuyên nghiệp tập 2, 1982) không có bài này. Lý do, theo nhóm tuyển
chọn, thì bài “Hoàng trùng trập khởi”
“không có trong tập nôm chép tay thơ, văn tế của Nguyễn Đình Chiểu”; lời văn và
tư tưởng cũng không giống. Nhóm tác giả cũng cho rằng, bài “Hoàng trùng trập khởi” sáng tác sau nạn
cào cào năm ẤT Tị 1905) (tức thời điểm Nguyễn Đình Chiểu đã mất [1888]). Bởi vậy,
ở đây chúng tôi tạm xếp “Hoàng trùng trập
khởi” vào diện Khuyết danh.
2.Trong
thực tế, “sâu keo” có khi được dùng với nghĩa như “sâu bọ” nói chung. Ví dụ “Cấy
xong gặp rét, lúa đã chết quá nửa, còn ít nào, lại bị sâu keo ăn hết”. Tuy
nhiên, trong “Hán Việt từ điển”, Đào
Duy Anh giảng “hoàng trùng” là “CON sâu keo”, nghĩa là chỉ đích danh “con sâu
keo”, chứ không phải là “sâu keo” với nghĩa sâu bọ nói chung.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét