Bia đá trong Thung Chim, thuộc quần thể Hoàng Nghiêu Sơn Ảnh: Báo GĐ&XH |
HOÀNG TUẤN PHỔ
Nằm ở giáp giới ba huyện: Nông Cống, Đông Sơn và Quảng Xương, Hoàng Nghiêu Sơn làm tiền án cho ngàn Nưa - núi Nưa... Theo tài liệu cũ, Hoàng Nghiêu Sơn dài gần 10 dặm, nhiều ngọn cao thấp nhấp nhô quây quần bên nhau họp thành gia đình núi soi bóng lung linh xuống sông Hoàng Giang, tựa như non trong lòng nước, nước ôm lấy non, cũng xứng danh chốn non nước hữu tình.
Phía
tây Hoàng Nghiêu Sơn, tựa lưng vào chân núi, liên tiếp các làng thuộc Nông Cống: Đại Bằng Tộc, Thái Bình, Nham Cát,
Hồi Cù, Yên Mỗ,... Trong quần thể Hoàng Nghiêu Sơn, nhiều hòn núi có tên và
không tên, nhân dân địa phương chỉ còn nhớ: Mũi Bạc, Hang Hầm, Động Cũ, Thung
Giếng, Thung Thuyền, Thung Táo, Động Đốt Than, Núi Nghè, Thung Dài, Đá Bạc, Ba
Bò, Thung Quýt, Hang Vàng, Hang Kham, Núi Cấm, Núi Am, Hang Hến, Động Từ Thức,...
Ngọn núi cao nhất 276m.
Khoảng
năm 1415, tướng quân Nguyễn Chích người làng Vạn Lộc, huyện Đông Sơn, đã xây dựng
căn cứ Hoàng Nghiêu Sơn để khởi nghĩa chống quân Minh xâm lược và đô hộ. Nguyễn
Chích đắp thành Hoàng Nghiêu, xây đá nối các ngọn núi Mũi Bạc, Đá Bạc, Ba Bò,
Thung Thuyền, Thung Giếng, Thung Táo, Thung Dài, Núi Cấm, Núi Am,v.v... tạo
thành tòa thành đá hùng vĩ có một không hai trong lịch sử đấu tranh chống xâm
lược của dân tộc Việt Nam. Rất tiếc tòa thành đá thiên tạo và nhân tạo trải qua
mưa gió thời gian sáu, bảy trăm năm không đủ sức chống đỡ để tồn tại mãi. Nhưng
sau 1945 vẫn còn lại một số đoạn tường thành làm chứng lịch sử. Nhiều đoạn tường
thành dẫu bị hủy hoại, các móng đá dường như bất diệt, trường thọ cùng núi đá.
Thành
đá Hoàng Nghiêu Sơn của tướng quân Nguyễn Chích là một sáng tạo nghệ thuật độc
đáo trong kiến trúc xây dựng thành đá dựa vào thiên nhiên, lợi dụng một công
trình núi non hùng vĩ của tạo hóa để thay sức người hữu hạn trong thế giới vô hạn.
Thành xây chủ yếu bằng đá xếp “Hòn trên đè hòn dưới, hòn dưới chống hòn trên”,
tạo nên thế vững chắc. Những hòn tảng, viên đá này chủ yếu thiên nhiên đã tạo
tác sẵn, con người chỉ lựa chọn xếp đặt chúng lại, nếu cần gia công chút ít...
Đó là chỗ khác với thành Tây Đô. Bởi vậy, sức lâu bền của tường thành này có hạn,
nếu không được thường xuyên giữ gìn, tu bổ.
Một đoạn thành đá tự nhiên Ảnh: Báo GS&XH |
Cửa thành đá Hoàng Nghiêu
Sơn mở hướng Đông; lấy sông rộng dòng sâu làm hào, nghĩa quân ra vào chủ yếu bằng
thuyền nan và Thung Thuyền là một kho thuyền lớn nhỏ xếp đầy hang chuẩn bị cho
hành quân xa. Các thung lũng được vỡ đất cấy lúa trồng màu, tự túc phần nào cho
nghĩa quân, phòng tiếp tế lương thực khi bị khó khăn do nguồn cung cấp từ làng
gần xóm xa.
Năm
1418, Nguyễn Chích nghe tin Bình Định vương dựng cờ khởi nghĩa ở núi Lam, liền
tìm đến yết kiến chủ tướng, tôn phò họ Lê làm minh chủ, nguyện đi theo. Nhưng
Nguyễn Chích nghĩ thế đất Lam Sơn rộng sâu mà không hiểm trở, e giặc đem đại
binh vây đánh, khó bề chống giữ, nên xin làm một tiền đồn bảo vệ mặt Nam cho
Lam Sơn. Cho nên, ông vẫn ở căn cứ Hoàng Nghiêu Sơn, được Lê Lợi phong chức Đô
đốc đại phủ quân, tổng quản quân dân, Tước quan Nội hầu.
Tướng
giặc Lương Nhữ Hốt chia quân quấy phá vùng Đông Sơn, Quảng Xương, Nông Cống,
hòng cắt đứt nguồn tiếp tế của nhân dân cho nghĩa quân Hoàng Nghiêu Sơn rồi xiết
chặt dần vòng vây buộc Nguyễn Chích phải ra hàng, nếu không, tất bị chết đói.
Nguyễn Chích biết âm mưu địch, liệu thế mình tiến thoái lưỡng nan, nghĩ cách
truyền tin báo hiệu. Binh pháp xưa đã dạy cách truyền tin gần dùng trống, truyền
tin xa đốt phân chó sói khói bốc lên cao làm tín hiệu. Hai cách truyền tin này
được Đặng Trần Côn miêu tả rất hay trong tác phẩm Chinh Phụ Ngâm, Đoàn Thị Điểm
dịch:
Trống Tràng thành lung lay bóng nguyệt
Khói cam tuyền mờ mịt thức mây.
Nghĩa
quân Hoàng Nghiêu Sơn mang “đại cổ” (trống lớn) lên thành đá thay nhau đánh ngũ
liên, âm thanh vang trời và nhóm phân súc vật đốt khói xông tận chín tầng mây.
Bà Nguyễn Thị Bành vợ Nguyễn Chích ở Vạn Lộc biết ngay nghĩa quân Hoàng Nghiêu
Sơn đang bị bao vây bốn phía, không cách gì thoát ra được. Bà Bành liền kêu gọi
chị em phụ nữ quê nhà, những làng xã gần xa quanh Vạn Lộc (Đông Sơn). Họ lấy giải
yếm làm cờ, câu liêm, nọc chuột, dao phay, đao rựa... làm vũ khí, tập hợp thành
đội quân năm, sáu trăm người. Đoàn quân váy vận, yếm mang, tiến bước trong đêm,
bước chân rầm rập dội vào vách núi Xích Lộ. Dưới ánh sao đêm mờ tỏ, giặc nhận
ra ngay một đoàn người đông nghịt, giáo gươm tua tủa, cờ xí rợp trời, khí thế
chuyển đất, báo ngay cho chủ tướng biết. Lương Nhữ Hốt bị bất ngờ, hoảng sợ,
nghĩ rằng quân cứu viện Lam Sơn đã tới, trong đánh ra, ngoài đánh vào, tất quân
Minh bị dồn ép vào giữa khó bề cựa quậy...
Nhữ
Hốt buộc phải ra lệnh rút, quân giặc hốt hoảng, mạnh ai nấy chạy... Nghĩa quân
Hoàng Nghiêu Sơn cùng nữ binh bà Bành phối hợp truy kích địch. Lương Nhữ Hốt
rút về đồn Cổ Vô, bị nghĩa quân bao vây phá đồn, phải cố sống cố chết chạy trốn
thoát vào thành Tây Đô (thành Nhà Hồ).
Toàn
quân Nguyễn Chính đại thắng. Giặc dùng tiền bạc, quan chức dụ dỗ ông về với triều
đình nhà Minh, Nguyễn Chích đều từ chối. Ông nghĩ lực lượng mình yếu, đóng giữ
một tòa thành đá cô đơn, khó phát triển, dễ bị bao vây, bàn với tướng sĩ đem
toàn bộ nghĩa quân gia nhập đại quân Lam Sơn binh hùng tướng giỏi. Thời điểm ấy
là 1420, Lê Lợi đang đóng quân ở miền rừng núi Mường Nanh, rất vui mừng, cho
Nguyễn Chích giữ chức Thiết đột Hữu vệ đồng Tổng đốc chư quân sự, tức một đạo
quân tiền phong xung kích của nghĩa quân Lam Sơn. Trong thời gian chiến đấu,
Nguyễn Chích luôn luôn đi đầu, xông pha nơi lửa đạn, lập nhiều chiến công được
Lê Lợi thăng chức Nhập nội Thiếu úy, một tướng lĩnh cao cấp trong nghĩa
quân Lam Sơn.
Đến
năm 1423, sau 5 năm dựng cờ đại nghĩa, nghĩa quân Lam Sơn nhiều lần thắng thua,
vô cùng gian khổ, không thể phát triển được, cứ phải quanh quẩn miền rừng núi
thượng du Thanh Hóa. Lê Lợi cùng bộ tham mưu bàn bạc mãi vẫn thấy bế tắc, không
tìm ra lối thoát.
Ngày
20 tháng 9 năm Giáp Thìn (1424) Lê Lợi họp các tướng lĩnh cao cấp trong nghĩa
quân hỏi: “Nay chúng ta nên đến xứ nào để mưu đồ việc nước?”.
Nguyễn
Chích trong thời gian dài đóng quân ở Hoàng Nghiêu Sơn, vẫn thường xuyên ra vào
hoạt động vùng Nam Thanh – Bắc Nghệ, hiểu rõ từng đồn lũy thành trì giặc Minh
trên đất Nghệ An, nhưng chỉ đột kích quấy rối, tiêu hao quân địch, chưa đủ sức
tiêu diệt chúng, lấy chỗ đứng chân, tạo thế bàn đạp tiến ra Bắc đánh chiếm Thăng
Long, giải phóng Đông Đô... Bây giờ Bình Định vương hỏi phương hướng tiến quân
đến xứ nào để mưu đồ việc nước, Nguyễn Chích thưa rằng: “Hạ thần thường qua lại
đất Nghệ An nhiều lần nên có biết những nơi hiểm yếu trong tỉnh ấy. Nay xin dẫn
quân vào trại của Cầm Bành ở Nghệ An, hễ y hàng thì ta phủ dụ, nếu y không hàng
thì ta đánh lấy trại ấy làm căn bản, rồi từ từ tính việc lấy lại Đông Đô. Như vậy
việc nước có thể thành được”.
Lê Lợi
cho lời bàn của Nguyễn Chích là phải, bèn chia quân tiến vào Nghệ An. Từ đó, Lê
Lợi đánh đâu thắng đó, Cầm Bành bị giết, các tướng Minh đều thua chạy, ta giải
phóng thành Nghệ An, rồi chuẩn bị lực lượng tiến quân ra Bắc. Năm 1427, Nghĩa
quân Lam Sơn toàn thắng, năm 1428, Lê Lợi lên ngôi Hoàng đế, sau khi quét sạch
giặc Minh xâm lược, thu phục giang sơn, giải phóng dân tộc tiến tới xây nền độc
lập... Công lao ấy, Nguyễn Chích và nghĩa quân Hoàng Nghiêu Sơn xứng đáng ghi
tên bảng vàng, chép vào sử xanh, tạc lên bia đá lưu truyền mãi muôn đời ...
Hoàng Nghiêu Sơn bị phá đá để nung vôi Ảnh: Báo Văn hoá & đời sống |
Di
tích lịch sử Hoàng Nghiêu Sơn chưa được quan tâm đúng mức bảo tồn, tôn tạo,
phát huy xứng tầm một di sản quốc gia. Chúng ta đã có động Bích Đào, càng nên
biết hang Từ Thức ở đây chép tiếp thiên tình sử diễm lệ và bi thương của Từ Thức
– Giáng Hương. Sau khi mối duyên tiên trần đứt gánh, Nguyễn Dữ - tác giả Truyền kỳ mạn lục nổi tiếng chép rằng:
Từ thức đội nón lá, tự chèo thuyền nan theo dòng nước biếc đi vào núi Hoàng
Nghiêu Sơn. Nhưng sông Hoàng Giang đâu phải lạch suối Đào Nguyên. Cũng không có
vườn đào, chỉ thấy rừng lau thưa phơ phất trắng bạc màu hoang dã, dẫn lối vào
nhiều hang động. Hang Từ Thức đường vào nhỏ hẹp dần rồi phình to ra hình quả bầu.
Chúng ta lần bước đi vào hang động này phát hiện răng thú, mảnh gốm, dấu vết bếp
nấu... của ẩn sĩ Từ Thức chăng? Hang Lòn lại có am Tiên, voi đá, rùa đá chầu chực,
giường đá, bàn cờ tiên... Hang Con Trâu có động Châu Nghĩa, nơi hội họp của
nghĩa sĩ Hoàng Nghiêu Sơn... Chùa Nghiêu Sơn Động Thiên Tự trong một cái
hang... Và khó kể hết vô vàn các hang kỳ lạ lớn nhỏ: hang Hón Mong, hang Ông Dài,
hang Sao Sa v.v... Thung Táo nghĩa quân đặt bếp nấu. Thung Đình nơi làm việc của
chủ tướng Nguyễn Chích... Riêng động Nham Cát rộng chừng vài chục mẫu ta, bà
con nông dân làng Nham Cát cày cuốc đôi khi nhặt được tiền ngũ thù, đồ gốm cổ,
đồ đồng thời Đông Sơn...
Di
tích Hoàng Nghiêu Sơn chứa nhiều tầng lớp văn hóa cổ chồng chất. Sông Hoàng
Giang còn có đặc sản hến vàng, vỏ vàng, ruột vàng, người xưa đã mò ăn, bỏ vỏ đầy
Hang Hến... Nghe nói loại hến này ăn đặc biệt ngon.
Đá
núi Hoàng Nghiêu Sơn là đá vôi, vân đá nhiều màu đẹp, lấp loáng khi ánh bình
minh lên và sáng tươi lúc nắng chiều tà, thêm vẻ đẹp cảnh quan di tích...
Nguyễn
Viết Hoành (1741 – 1800) tác giả Văn Đỉnh
thi tập có thơ Vịnh thành Lê Chích (Chích họ Nguyễn được tứ quốc tính mang
họ Lê Lợi):
Sức người hợp sẵn thợ trời xây
Lê Chích thành xưa phải chốn này?
Sóng vỗ sườn non hồi súng nổ,
Gió lùa ruộng cỏ lá cờ bay.
Canh phòng khuya sớm tiều vài lũ,
Do thám trong ngoài lái mấy tay.
Hoàng thủy Nghiêu Sơn ghi tích cũ,
Thành Lê cập đệ sánh đâu tày?
Ngày
nay người ta khai thác đá núi Hoàng Nghiêu mới thật rầm rộ, xe xe ngựa ngựa tấp
nập ngày đêm như đại công trường. Tiếng mìn phá đá ầm ầm vang rền gấp bội tiếng
“trống trường thành”, khói lò vôi bốc lên ô nhiễm cả bầu trời diễn lại cảnh
binh đao “khói cam tuyền mờ mịt thức mây”! Chúng ta đã phụ lòng khách du khảo,
du lịch gần xa đến đây vì một di tích lịch sử quý giá trong lịch sử dân tộc Việt
Nam, đang bị biến dạng để rồi sẽ biến mất trên cõi đời trần thế, nếu không được
kịp thời bảo tồn và tôn tạo(***).
Hoàng
Tuấn Phổ
Chú
thích:
(*) Nguyễn Viết Hoành tức
Nguyễn Hoành, Viện trưởng thuốc Nam (Ngự y chánh, chánh Nam dược cục) triều Tây
Sơn.
(**) Tài liệu chủ yếu của
người viết bài điền dã và tìm trong quốc sử.
(***) Vào đầu những năm 2000, tôi (HTC) từng đến nơi này, thấy từng đoàn xe bánh xích đang mở đường ở lưng chừng núi để tiến sâu vào thung lũng khai thác đá. Núi đá được bán cho tư nhân rất rẻ, chỉ mấy chục triệu một ngọn. Năm 2008, người ta còn định quy hoạch nơi này thành bãi rác. Không biết bây giờ Hoàng Nghiêu Sơn ra sao rồi.
(***) Vào đầu những năm 2000, tôi (HTC) từng đến nơi này, thấy từng đoàn xe bánh xích đang mở đường ở lưng chừng núi để tiến sâu vào thung lũng khai thác đá. Núi đá được bán cho tư nhân rất rẻ, chỉ mấy chục triệu một ngọn. Năm 2008, người ta còn định quy hoạch nơi này thành bãi rác. Không biết bây giờ Hoàng Nghiêu Sơn ra sao rồi.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét