"Đi
tìm xuất xứ thơ Hồ Chí Minh"
Tác
phẩm đạt giải Hội nhà văn Việt Nam
của Lê Xuân Đức
Hoàng Tuấn Công
TCTP: Bài viết này được Tuấn Công Thư Phòng biên tập lại cho ngắn gọn, thêm phần đạo văn của Lê Xuân Đức, thay thế cho bài đăng trước đây.
“Đi tìm xuất xứ thơ Hồ Chí Minh”, là sách được giải cao nhất của Hội Nhà văn Việt Nam trong cuộc vận động sáng tác, quảng bá tác phẩm văn học
nghệ thuật, báo chí viết về chủ đề “Học tập, làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh. Sách đề tên tác giả: “Lê Xuân
Đức Dạy văn, Viết văn, Hội viên Hội nhà văn Việt Nam, Đại biểu quốc hội khóa
VIII”.
“Đi tìm
xuất xứ thơ Hồ Chí Minh” có hai phần. Phần I “Thơ tiếng
Việt” và phần II “Thư chữ Hán”.
Những gì Lê Xuân Đức viết trong phần I rất khó xác minh đúng sai, kiểm chứng
thông tin. Vì nhiều đoạn, Lê Xuân Đức kể giống như chính mình là người chứng
kiến mà không hề chú thích theo nguồn tài liệu nào. Bởi vậy, chúng tôi không
thể lại “đi tìm xuất xứ” những dòng Lê Xuân Đức viết. Tuy nhiên, phần thơ chữ
Hán số lượng hơn 30 bài, nhác qua đã thấy tới nửa số bài có vấn đề. Và “vấn đề”
ở đây cũng không có gì mới. Tức cái sai vẫn mang dấu ấn của Lê Xuân Đức: “chữ
tác đánh chữ tộ”, phá hỏng nguyên tác thơ Hồ Chí Minh, và đạo văn.
I.CHỮ
TÁC ĐÁNH CHỮ TỘ:
1.
Bài “Tặng Bùi công”:
Câu
"Khán thư sơn điểu thê song
hãn" (Lúc xem sách chim rừng vào đậu ở cửa sổ).
Chữ
"hãn" 杆 trong “song hãn” nghĩa là cái song cửa, một âm đọc khác là “can” trong
từ “lan can”-hàng chấn song cửa (chữ hãn
có bộ mộc 木chỉ nghĩa và bộ can 干ghi
âm) bị viết thành chữ “hãn” 扞 (chữ hãn có bộ thủ扌chỉ nghĩa và bộ can 干ghi âm) nghĩa là: “Chống giữ ② Chống cự, như hãn cách 扞格
chống cự”. (Hán
-Việt từ điển-Thiều Chửu). Như vậy, Nguyên tác thơ Hồ Chí Minh: 看書山鳥棲窗杆 (Xem sách chim rừng vào đậu ở cửa sổ) qua
tay Lê Xuân Đức bị biến thành: 看書山鳥棲窗 扞 và bắt buộc phải hiểu là: Xem
sách, chim rừng vào đậu cửa ở sổ nhưng bị ngăn lại (!)
2.Bài “Vô
đề”:
Câu "Quân
cơ quốc kế thương đàm liễu" (Việc quân việc nước đã bàn xong). Chữ liễu
了 trong nguyên tác thơ Hồ Chí Minh nghĩa là
xong, rồi, bị viết thành chữ liệu 瞭 (có bộ mục) có nghĩa là: mắt
sáng, hiểu rõ. Căn cứ "nguyên tác" của Lê Xuân Đức, ý nghĩa của
câu thơ sẽ thành: Mắt vẫn sáng để bàn
chuyện quân cơ quốc kế, hoặc: Khi bàn
việc quân việc nước vẫn hiểu rõ (!?)
3.Bài “Tư
chiến sĩ”:
Câu "Dương
quang hòa noãn báo tân xuân" (Ánh mặt trời ấm áp báo mùa xuân mới đã
sang). Chữ "báo" 報trong nguyên tác thơ Hồ Chí Minh có nghĩa là báo tin, bảo cho biết (động từ) bị Lê Xuân Đức viết thành chữ
"báo" 豹 có
nghĩa là con báo (danh từ chỉ động vật):
陽光和暖豹新春 Như thế, nguyên tác thơ bị biến thành: Ánh mặt trời ấm áp mùa xuân đến cùng...con báo (!)
4.Bài “Gửi
đồng chí Trần Canh”:
Câu "Hùng
sư bách vạn tất thính lệnh" (Trăm vạn hùng binh đều nghe lệnh) chữ
"tất" nghĩa là đều, hết, tất cả,
bị phiên âm thành "đất"-một từ không hề có trong Hán tự.
5. Bài “Ngọ quá thiên giang”:
Câu "Thiên
giang, giang ngạn mãn xuân tương" (Bên bờ sông Thiên, sương xuân đã phủ
đầy). Nguyên tác chữ Hán "Thiên giang, giang ngạn" 遷江江岸 (Bên bờ con sông Thiên) bị Lê Xuân Đức viết
thành "Thiên giang, thiên ngạn"遷江遷岸. Chữ “thiên” 遷có
nghĩa là dời đổi, “Thiên ngạn” nghĩa
là Bờ con sông Thiên đã bị dời đi nơi
khác phủ đầy sương xuân (!).
Đáng chú ý, trong sách "Tinh hoa thơ Hồ Chí Minh" của Lê Xuân Đức (NXB Văn học-2010) câu "Thiên Giang, giang ngạn" lại bị ông đánh hỏng đi kiểu khác. Đó là ông phân tích: "Thiên Giang giang" là sông Thiên Giang (sông Thiên)". Thế là Lê Xuân Đức chẳng hiểu gì về ngữ pháp Hán văn, chẳng hiểu gì về con sông Thiên. Bởi "Thiên giang" đã có nghĩa là sông Thiên rồi. Chữ "giang" thứ hai phải gắn với chữ "ngạn": "giang ngạn" thành nghĩa "bờ sông": Thiên Giang, giang ngạn" là bờ con sông Thiên. Nếu cắt chữ "giang" sang thành cụm từ "Thiên Giang giang" như Lê Xuân Đức thì bỏ chữ "ngạn" đi đâu ?
.......
(Bài tạm gỡ để sửa chữa, nâng cấp. Kính mong bạn đọc thông cảm)
Đáng chú ý, trong sách "Tinh hoa thơ Hồ Chí Minh" của Lê Xuân Đức (NXB Văn học-2010) câu "Thiên Giang, giang ngạn" lại bị ông đánh hỏng đi kiểu khác. Đó là ông phân tích: "Thiên Giang giang" là sông Thiên Giang (sông Thiên)". Thế là Lê Xuân Đức chẳng hiểu gì về ngữ pháp Hán văn, chẳng hiểu gì về con sông Thiên. Bởi "Thiên giang" đã có nghĩa là sông Thiên rồi. Chữ "giang" thứ hai phải gắn với chữ "ngạn": "giang ngạn" thành nghĩa "bờ sông": Thiên Giang, giang ngạn" là bờ con sông Thiên. Nếu cắt chữ "giang" sang thành cụm từ "Thiên Giang giang" như Lê Xuân Đức thì bỏ chữ "ngạn" đi đâu ?
.......
(Bài tạm gỡ để sửa chữa, nâng cấp. Kính mong bạn đọc thông cảm)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét