Tranh minh hoạ về hiện tượng "bóng đè" Nguồn: st |
HOÀNG TUẤN CÔNG
Trong bài “Đỗ Hoàng Diệu nói gì về phim
‘Bóng đè’ trùng với tên tác phẩm của mình?” (Tiền Phong - 24/12/2019),
Đỗ Hoàng Diệu cho biết “Tin đấy dập vào mặt
tôi còn rát hơn cả tuyết”.
Lý do cảm giác như bị “dập vào mặt” này, Đỗ Hoàng Diệu cho rằng: “Rõ ràng chỉ nghe tên Bóng đè thôi, nhiều người đã
nghĩ ngay, liên tưởng ngay đến truyện của tôi (...) thực tế Bóng đè đã là thương hiệu của Đỗ
Hoàng Diệu, như rau má với Thanh Hóa, như cốm với làng Vòng, như thịt chó với
Nhật Tân, như nước mắm với Phú Quốc, như Tướng về hưu với
Nguyễn Huy Thiệp, như Cánh đồng bất tận với Nguyễn
Ngọc Tư…”.
Đỗ Hoàng Diệu nói “hơi khó tin” đoàn làm phim đã vô tình, bởi “cả một đoàn phim, từ biên kịch, đạo diễn cho tới nhà sản xuất, quay phim, diễn viên, đối ngoại… chẳng lẽ?”.
Cũng trên báo Tiền Phong (24/12/2019), bài “Hồ
Anh Thái nói về phim ‘Bóng đè’: Tối kị đặt trùng tên tác phẩm người khác”,
tác giả Vi Khanh đã “hỏi ý kiến nhà văn Hồ Anh
Thái quanh việc đặt tên phim kỳ quặc này”.
Theo đây, Hồ Anh Thái cho rằng, không nên “đặt
tên một bộ phim là “Bóng đè” trong bối cảnh đã có truyện “Bóng đè” quá nổi
tiếng, của Đỗ Hoàng Diệu”. Bởi “Thứ nhất: Nó trùng tên với một tác phẩm
đi trước đã được bảo hộ bản quyền (Thậm chí tôi từng đề nghị bảo hộ tác phẩm là
bảo hộ cả tên tác phẩm). Thứ hai: Lặp lại người khác là thứ rất kỵ đối với tác
phẩm văn học nghệ thuật”.
Vậy, có thật “Bóng đè” chỉ có thể là “thương
hiệu của Đỗ Hoàng Diệu”? Và người ta có thể “bảo hộ tác phẩm là bảo hộ cả tên
tác phẩm” được không?
1-“Bóng đè” là một từ đã có sẵn:
Cách nay ít nhất đã gần trăm năm, “Việt Nam tự điển” (Hội Khai trí Tiến đức-Hà Nội-1931) đã thu thập và giải nghĩa: “bóng
đè • Khi ngủ mê hình như có người đè chân tay không cựa được”.
Sau đó là nhiều cuốn từ điển tiếng Việt thông
dụng ấn hành ở cả hai miền Nam-Bắc:
-“Từ điển tiếng Việt”
(Văn Tân chủ biên-Hà Nội, 1967): (bóng đè • Nói người khi ngủ mê có
cảm giác khó thở như có vật gì đè lên trên người, làm cho không cựa được”.
- “Việt Nam tự điển” (Lê Văn Đức-Sài Gòn, 1970): “bóng đè • trt. Mộc đè, bị
chấp-chới và ngạt thở khi đang ngủ: Bị bóng đè”.
-“Từ điển tiếng Việt” (Vietlex-2016): “bóng đè • d hiện
tượng xảy ra trong khi ngủ, có cảm giác như có gì đè nặng lên người, làm cho
khó thở và không cựa quậy được: “Mợ phán hình như bớt bệnh bóng đè rồi thì
phải. Đêm đến không thấy rền rĩ lắm nữa.” (Tô Hoài) v.v…
Bởi
“bóng đè” là một từ có sẵn trong kho tàng tiếng Việt, nên bất cứ ai cũng có
quyền dùng để nói, viết, hay đặt tên cho tác phẩm (bất kể thuộc loại hình nghệ
thuật nào), mà không cần quan tâm đến “thương hiệu của Đỗ Hoàng Diệu, như rau má với
Thanh Hóa, như cốm với làng Vòng, như thịt chó với Nhật Tân, như nước mắm với
Phú Quốc…” ra sao.
2 - Đỗ
Hoàng Diệu không phải là người đầu tiên dùng “bóng đè” đặt tên cho tác phẩm:
“Bóng đè” là gì? Theo khoa học, đây là hiện tượng rối loạn
giấc ngủ, thường xảy ra với người mới ốm dậy, cơ thể suy nhược, khí huyết, kinh
lạc lưu thông kém, hoặc bị ám ảnh bởi sự việc nhìn thấy ban ngày… Còn
dân gian lại tin rằng, “bóng đè” là do cây gỗ lâu năm trên rừng thành tinh, quấy phá giấc
ngủ của gia chủ, nên “bóng đè” còn được gọi là “mộc đè”, “mộc chận”. Bởi thế, khi dùng gỗ rừng dựng nhà, người ta thường cẩn thận làm lễ
“phần sài” (焚柴). Thầy phù thủy đọc thần chú, dùng que hương châm lửa làm
tên, lắp vào cung bắn lên cột kèo, xà nhà... trừ “mộc tinh”, ngõ hầu giúp gia
chủ không còn bị “con mộc” đè trong giấc ngủ nữa.
“Bóng đè” chỉ trạng thái con
người cảm thấy như bị đè nén, cưỡng bức, vật lộn trong nửa tỉnh nửa mê của giấc
ngủ. Bởi vậy, từ này hay được dùng trong lối nói đùa cợt hàng ngày, hoặc vận dụng
vào văn chương để ám chỉ hành vi tình dục, hay cưỡng bức thân xác nào đó. Ví
như:
-Trước “Bóng
đè” (2005) của Đỗ Hoàng Diệu tới hơn nửa thế kỷ, Tô Hoài đã có truyện ngắn
“Bóng đè” (1943) in trong tập “Giăng thề”, có trong “Tuyển tập Tô Hoài” (NXB Văn học-1987).
Năm 2019 “Giăng thề” được NXB Văn
học tái tái bản, trong đó có truyện ngắn
“Bóng đè”. Ngữ liệu mà “Từ điển tiếng Việt” (Vietlex) dẫn: “Mợ
phán hình như bớt bệnh bóng đè rồi thì phải. Đêm đến không thấy rền rĩ lắm nữa”, chính là trích trong tác phẩm này[1].
Truyện ngắn "Bóng đè" trong "Tuyển tập Tô Hoài" (NXB Văn học-1987) Ảnh do Dịch giả Nguyễn Quốc Vương cung cấp |
-Trước Tô Hoài, Nguyễn Khuyến (1835-1909) từng có
bài thơ “Bóng đè cô đầu”,
trong đó có câu: “…Bóng đâu là bóng đè cô/Bỗng thấy sự nhỏ to thêm thắc mắc…”[2].
Như
vậy, nếu như “Tướng về hưu”, hay “Cánh đồng bất tận” mang dấu ấn chữ nghĩa
của cá nhân, thì “bóng đè” hoàn toàn
không phải là sáng tạo riêng có của Đỗ Hoàng Diệu. Nói rõ hơn, “Tướng về hưu” và “Cánh đồng bất tận”, bản chất là những cụm từ tự do, được tạo nên, và
chỉ xuất hiện sau khi có sự nhào nặn, sắp đặt của nhà văn; trong khi “bóng đè”
là một từ “có
nghĩa hoàn chỉnh và cấu tạo ổn định, dùng để đặt câu” (Từ
điển Vietlex). Bởi thế, không thể “thử tưởng tượng bộ phim có tên “Cánh đồng bất
tận” mà lại không liên quan đến “Cánh đồng bất tận” của Nguyễn Ngọc Tư thì thế
nào nhỉ?”,
như Nhà văn Đỗ Hoàng Diệu so sánh.
3 -
Không nhất thiết nhà văn cần phải biết,
và cần tránh tất cả tên các tác phẩm đã có trước đó
Cả Đỗ Hoàng Diệu và Hồ Anh Thái đều cho rằng,
đoàn làm phim “Bóng đè” không thể
không biết tác phẩm “rất nổi tiếng”
cùng tên của Đỗ Hoàng Diệu.
Hồ Anh Thái phân tích: “Người làm nghệ thuật đích thực phải là người hiểu biết rộng và sâu,
không chỉ lĩnh vực của mình mà cả các lĩnh vực nghệ thuật khác; không chỉ văn
chương nghệ thuật mà cả kiến thức văn hóa, xã hội, chính trị, kinh tế... Như
vậy khó có thể nói là tôi không biết có tác phẩm mang tên ấy ở ngành nghệ thuật
khác”.
Trong khi Đỗ Hoàng Diệu
khẳng định: “Dù vô tình hay cố ý, đơn vị
làm phim cũng có vấn đề. Nếu vô tình, chứng tỏ anh thiếu hiểu biết, thiếu ngay
từ mảng văn hóa nghệ thuật là mảng chính anh đang sống trong đó, làm trong đó,
kiếm tiền từ đó, nổi danh từ đó”.
Tác giả “Bóng
đè” cảnh báo: “Tôi chưa cầm tiền
nhưng đã gần như hứa sẽ để dành “Bóng đè” cho một công ty (…) Mà giả sử tương
lai, phim dựa trên truyện “Bóng đè” của tôi được phép, chẳng lẽ lúc đó lại ghi
chú: Bóng đè này không phải Bóng đè kia? Đè đi đè lại, bóng người người bóng có
mà nổ tanh bành”!
Vậy câu hỏi đặt ra, là khi viết truyện ngắn “Bóng đè”, Đỗ Hoàng Diệu có biết, và dứt khoát cần phải biết
trước đó hơn nửa thế kỷ đã có truyện ngắn cùng tên của Tô Hoài hay không? Nếu
đòi những người làm phim “Bóng đè”
phải biết “tác phẩm mang tên ấy ở ngành
nghệ thuật khác”, thì lý do gì lại không buộc chính mình phải biết “tác phẩm mang tên ấy” ở cùng thể loại truyện ngắn? Và khi cho ra đời truyện
ngắn cùng tên với truyện ngắn của Tô Hoài, Đỗ Hoàng Diệu có phải chú thích “Bóng đè này
không phải Bóng đè kia”? Có cảm thấy “Đè đi đè lại, bóng người người bóng có mà
nổ tanh bành” không?
4 - Trùng tên tác phẩm là điều bình thường
Trong bài phỏng vấn trên báo Tiền Phong, Hồ Anh Thái phàn nàn: “Bên
truyền hình thường xuyên lấy tên tác phẩm của người khác: Nắng
chiều (tên truyện ngắn của Nguyễn Khải)…”. Và
cho rằng: “tên tác phẩm cũng là một thứ
bản quyền. Cũng cần phải đăng ký. Cũng không được vi phạm”.
Chúng tôi không biết “bên truyền hình” nào đã lấy tên tác phẩm
“Nắng chiều” (2001) của Nguyễn Khải
để đặt tên cho phim. Nhưng trước Nguyễn Khải tới gần nửa thế kỷ, đã có nhạc
phẩm “Nắng chiều” (1953) rất nổi
tiếng của Lê Trọng Nguyễn. Sau đó, năm 1973, nhạc phẩm “Nắng chiều” này xuất hiện trong bộ phim cùng tên của đạo diễn Lê
Mộng Hoàng.
Thêm một vài ví dụ khác,
trong muôn vàn các ví dụ:
-Trong cùng một thể loại, đã
có bài hát “Làng tôi” (“xanh bóng tre…”)
của Văn Cao, còn có “Làng tôi” (“sau luỹ
tre mờ xa…”) của Hồ Bắc, “Làng tôi” (“có
cây đa cao ngất từng xanh…”) của Chung Quân, rồi lại “Làng tôi” (“trong bóng tre xanh hàng dừa cao…”) của Lê Việt…Đã có bài thơ “Quê hương” của Tế Hanh, lại có “Quê hương” của Đỗ Trung Quân; đã có “Chị tôi” của Trần Tiến, lại có cả “Chị tôi” của Trọng Đài…Mỗi bài có chỗ
đứng riêng trong lòng công chúng. Không ai kiện cáo, thắc mắc, và có thể kiện
cáo thắc mắc được ai.
-Có hai bộ sách cùng tên “Tứ thư” 四書: Một là “Tứ thư” kinh điển của nho gia; một là “Tứ thư” của
Diêm Liên Khoa (Châu Hải Đường dịch - NXB Hội Nhà văn 2019) viết về thời kì cách
mạng “đại nhảy vọt kinh hoàng” của Trung Quốc. Hai cuốn “Tứ thư”
trước, sau cách nhau đến cả ngàn năm.
"Tứ thư" của Diêm Liên Khoa |
5 - Có nên tự mặc định
“Ta là Một, là Riêng, là Thứ Nhất…”?[4]
Từ chỗ đề nghị xác lập quyền sở hữu từ ngữ đã đặt tên cho tác phẩm, Nhà
văn Hồ Anh Thái còn đề xuất bảo hộ luôn bản quyền “nghệ danh”: “Tôi còn thấy nghệ
sĩ thế hệ sau rất đáng trách nếu lấy nghệ danh của người đi trước, ví dụ Phương
Thanh, Thanh Hoa, Thu Phương, Thùy Linh... Nghệ danh cũng là một thứ cần được bảo
hộ bản quyền”.
Trong khi Đỗ Hoàng Diệu cho rằng: “Nói cho đúng, kho từ vựng tiếng Việt dù bao
la song đôi lúc cũng chật chội, chỉ có thể là từ đấy đặt ở đấy mà không thể từ
khác. Nhưng từ đó cấm kỵ, từ đó quá quen thuộc, từ đó đã “thuộc về” người khác?
Lúc này sáng tạo lên ngôi. Kho từ vựng chưa có thì anh nghĩ ra từ mới, anh chế
biến từ những cái có sẵn thành cái mới, chẳng phải sẽ hay hơn, độc đáo hơn”.
Chúng tôi không nghĩ, các “ông hoàng”, “bà hoàng” hiện đại lại có quyền cấm
thiên hạ “phạm huý” như các ông hoàng bà chúa thời phong kiến; càng không tin người
ta có quyền đăng ký, và được cấp phép vĩnh viễn sở hữu một từ ngữ nào đó trong
kho tàng tiếng Việt, hay có một từ nào đó bỗng chốc lại trở thành “cấm kỵ”, “thuộc về người khác”, cho dù từ ngữ ấy gắn với bất kì “thương hiệu”, tên tuổi nào.
Còn nhớ đầu năm 2019, từng có chuyện ầm ĩ trong làng
văn, bởi Nhà thơ Nguyễn Linh Khiếu tố cáo Nhà thơ Đinh Sĩ Minh đánh cắp từ “phồn
sinh” của ông.
Cụ thể, Nguyễn
Linh Khiếu cho rằng, vào năm 1995, ông là người “tìm ra” từ “phồn
sinh”, thế mà đến “năm 2018 vừa rồi, tác giả Đinh Sỹ Minh lấy tên “Phồn
sinh” đặt cho một tập thơ của mình”. Kết thúc bài viết này, chúng tôi đã đặt
ra câu hỏi: “giả sử Tống Ứng
Tinh hoặc một tác gia cổ đại nào đó “đăng ký độc quyền từ ngữ”, thì chắc hẳn, từ
“phồn sinh” chẳng những
không “phồn sinh” được, mà còn
nằm chết dí trong tác phẩm của họ từ mấy trăm năm trước. Người đời sau đâu
còn được quyền “tìm ra”, rồi tạo
nên tác phẩm “đáng kể” như Nhà
thơ Nguyễn Linh Khiếu tự hào?”. Và cho rằng:
“Với một tác phẩm văn học, sự đóng góp của nhà văn không chỉ
về tư tưởng, cốt truyện, hay hình tượng nghệ thuật…mà còn về mặt ngôn ngữ. Giả
sử ai đó là người sáng tạo ra từ “phồn sinh”, thì sự đóng góp “đáng kể” của tác
phẩm về mặt ngôn ngữ sẽ phụ thuộc vào việc từ “phồn sinh” có thực sự “phồn
sinh” trong đời sống hay không” (Ai đã tìm ra từ phồn sinh - TCTP và báo Người Lao Động-17/3/2019).
Không lẽ văn chương nghệ thuật đang manh nha
hiện tượng độc quyền chữ nghĩa, tên tuổi? Người đi trước thành công, thành danh
thì tìm cách ngăn chặn, không cho người đi sau sử dụng từ ngữ, tên tuổi giống
mình?
Hoàng
Tuấn Công/12/2019
Chú thích:
[1] Truyện ngắn “Bóng đè” của Tô Hoài kể về mợ phán Hoằng, con dâu ông bà trưởng
Luỹ, có chồng là cậu phán, vào Nam làm việc đã hai năm. Mợ phán ở nhà phụng
dưỡng bố mẹ chồng. Bỗng nhiên, “cứ đến nửa đêm là ông trưởng lại nghe tiếng
ứ ừ, tiếng lạch cạch, tiếng hấm hứ bên phòng nàng dâu”, rồi sáng mai mợ
phán thức dậy với bộ dạng mệt mỏi, đầu tóc bơ phờ. Ông bà lấy làm lo lắng lắm.
Hỏi ra, qua lời “kể lể” của mợ phán, bà trưởng Luỹ mới nói với con dâu:
“Thế thì mợ bị bóng đè đấy! Đã mấy đêm rồi?
-Dạ, ba đêm liền rồi ạ.
Ông
cũng đồng tình:
-Ừ,
bóng đè đấy”.
Bà trưởng chạy vạy thuốc thang, cúng bái thế nào cô
con dâu cũng không khỏi. Cứ nửa đêm mợ lại bị “bóng đè” ứ ừ, hổn hển.
Thế rồi, nhân lúc mợ phán đi vắng, ông trưởng mới “vào buồng mợ ngắm nghía
mãi” và phát hiện cửa ra vào phòng mợ “giáp ngay chân bức tường hoa
thấp, chạy dọc theo hè phố”. Thế rồi, mấy đêm liền ông mới vờ than nóng
bức, sai thằng xe khiêng cái chõng lên nằm án ngữ ngay chỗ đầu hè ấy để nằm. Từ
đó, nửa đêm ông không còn nghe tiếng cô con dâu bị “bóng đè” cho “rền
rĩ” nữa. Nhưng người ta lại thấy mợ phán đêm đêm đèn khuya chiếc bóng “ngồi
yên lặng trông ra đường” như ngóng chờ ai, “chốc chốc lại nghe một tiếng
thở dài não nuột đến đá cũng phải đổ mồ hôi”.
Truyện “Bóng
đè” của Tô Hoài kết thúc bằng lời thắc mắc “Mợ phán buồn gì thế? Mợ khỏi
bóng đè rồi kia mà!...”.
Cốt truyện này tuy đơn giản, nhưng nếu được chuyển
thể thành phim truyện ai bảo sẽ không kéo dài được nhiều tập hấp dẫn, thú vị?
[2] Lời chú của tác giả sách “Nguyễn Khuyến-Tác phẩm”: “…một hôm Dương Khuê đến chơi nhà Nguyễn Khuyến, Nguyễn Khuyến
lại mời đến chơi nhà người anh rể Nguyễn Chính. Nhân đó, ông Chính gọi cô đào
Sen đến hát. Cô Sen ngủ ở nhà dưới, bị người chòng ghẹo. Cô Sen kêu lên, Nguyễn
Khuyến nghe tiếng hỏi cô Sen thì anh kép chống chế nói là cô ấy bị bóng đè.
Nguyễn Khuyến biết ý, làm đùa bài hát này và bảo cô Sen hát ngay lúc đó”. (dẫn theo “Thivien.net)
[3] Cũng cần nói thêm,
“nắng chiều”, “nắng sớm”, “nắng mai”, hay “nắng trưa”…đều là những từ ngữ, khái
niệm không của riêng ai, không có gì đặc biệt, và xuất hiện rất nhiều trong thơ
ca, nhạc hoạ...Nói cách khác, từ ngữ ấy có đặc biệt hay không, là ở tài vận
dụng, khai thác của từng người. Bởi thế, tuy cùng tên, nhưng “Nắng chiều” của Lê Trọng Nguyễn có chỗ
đứng hoàn toàn khác với “Nắng chiều”
của Nguyễn Khải.
[4] Trích “Hy Mã Lạp Sơn” -
Xuân Diệu.
Thật tuyệt! Tâm phục, khẩu phục! Cám ơn tác giả rất nhiều! Chúc Hoàng Tuấn Công khoẻ mạnh để tiếp tục có những bài viết hay!
Trả lờiXóaBài viết quá súc tích, lý luận chặc chẽ, gấp bội phần lý lẽ của mấy ông gọi là nhà văn.
Trả lờiXóaBài viết quá hay. Nhà văn nếu được ko nên dẫm lên vết chân người khác. Mà nếu dẫm cũng ko sao, miễn là có dẫu ấn riêng. Một bài thơ ba bốn ns phổ nhạc là chuyện thường
Trả lờiXóa