HOÀNG TUẤN CÔNG
Căn cứ cách giảng của
nhà biên soạn từ điển, thì “gật” trong “gà gật” là tiếng gốc, còn “gà” chỉ là yếu
tố “láy”. Tuy nhiên, “gà gật” là từ ghép đẳng lập, vốn là một cách
nói tắt của “ngủ gà ngủ gật”, hay là sự hợp nghĩa của hai từ ghép chính phụ “ngủ
gà” và “ngủ gật” được giản hoá.
Có thể lấy dẫn chứng điển hình
qua cách giảng sau đây:
-“Từ
điển tiếng Việt” (Trung tâm
từ điển học Vietlex): “ngủ gà • đg. ngủ lơ mơ, mắt khép không chặt,
thỉnh thoảng lại choàng tỉnh, giống như gà ngủ: “Độ cố mở mắt, tay ghì chặt
lấy vai Na. Hai mắt ríu lại, lơ mơ như ngủ gà.” (Nguyễn Đình Thi).”; “ngủ gật • đg. ngủ ở tư thế
ngồi hoặc đứng, đầu thỉnh thoảng lại gật một cái : ngủ gật trong lớp ~ “Một
ông già loắt choắt ngồi ngủ gật lim dim trước đống lửa đã vạc.” (Nguyễn
Đình Thi)”.
Qua cách giảng trên, chúng
ta thấy sự phân nghĩa rất rõ của “ngủ gà” (“ngủ lơ mơ, không say”); và “ngủ gật” (“đầu thỉnh thoảng lại gật nhẹ”).
Tiếp tục xét cách giảng của
“Từ điển tiếng Việt” (Vietlex),
chúng ta sẽ thấy “gà gật” là từ đồng nghĩa hoàn toàn với “ngủ gà ngủ gật” và
ngược lại: “gà gật • đg.
[kng] ngủ lơ mơ, không say, đầu thỉnh thoảng lại gật xuống, do ở tư thế
ngồi hoặc đứng: Tàu bắt đầu vào ga, hành khách đang gà gật bỗng choàng tỉnh
~ Không khí tĩnh lặng khiến cô bé vừa đọc sách vừa gà gật. Đn: ngủ gà ngủ
gật.”; “ngủ gà ngủ gật • [kng] ngủ lơ mơ ở tư thế ngồi hoặc đứng, đầu
thỉnh thoảng lại gật một cái : “Bà chủ quán đang ngồi ngủ gà ngủ gật ở trên
một chiếc ngế gỗ đặt nơi góc nhà.” (Nguyễn Huy Thiệp; 2). Đn: gà gật”.
"Ngủ gà ngủ gật" Ảnh: ST |
Tham khảo thêm một vài cuốn
từ điển, chúng ta thấy cách giảng tương tự:
-“Việt Nam tự điển” (Lê Văn Đức): “ngủ gà • đt. Ngủ không say, mắt hơi mở.”;
“ngủ gật • đt. C/g
Ngủ gục, X. Ngủ gà ngủ gật”; “ngủ gà
ngủ gật • đt. Đang ngồi hoặc đứng mà ngủ, mắt khi nhắm khi mở, đầu
thỉnh-thoảng gật xuống”.
-“Việt Nam tự điển” (Hội khai trí Tiến Đức): “ngủ
gà • Nói ngủ không say, mắt không nhắm kín, giống như con gà”; “ngủ gật •
Ngủ ngồi, đầu gật xuống”.
Trong
khi cách giảng của “Từ điển từ và ngữ Việt Nam” (GS. Nguyễn Lân) thiếu chính xác vì
cho rằng “ngủ gà ngủ gật” đồng nghĩa với “ngủ gà”. Cụ thể: “ngủ gà ngủ gật •
ng. Như Ngủ gà, thỉnh thoảng lại gật
đầu <> Ngả lưng dựa vào cái cột sắt
ngủ gà ngủ gật (Thế-lữ)”. Theo đây,
“ngủ gà ngủ gật” không đồng nghĩa với “ngủ gà”, mà chỉ có thể đồng nghĩa với
“gà gật”, hay “ngủ gà ngủ vịt”, một cách “biến tấu” của “ngủ gà” mà thôi.
Trong
thực tế, có khi người ta chỉ “ngủ gà”, chứ không “ngủ gật”.
Ví như đứa trẻ con, hoặc người ốm ngủ không say giấc mà chỉ “ngủ lơ mơ, mắt khép không chặt, thỉnh thoảng
lại choàng tỉnh, giống như gà ngủ” (vì người ta nằm trên giường nên không
“gật”). Cũng có khi “ngủ gật” (tư thế ngủ ngồi, đứng), chợp mắt theo từng giấc
ngắn, thỉnh thoảng đầu lại gật xuống. Lại cũng có khi ở tư thế ngồi, người ta
vừa “ngủ gà” vừa “ngủ gật”, gọi là “gà gật”, đúng như Từ điển Vietlex giải thích: “ngủ
lơ mơ, không say, đầu thỉnh thoảng lại gật xuống, do ở tư thế ngồi hoặc đứng”.
Như vậy, “gà gật” là từ
ghép đẳng lập, một sự hợp nghĩa của “ngủ gà” và “ngủ gật”, hay một cách nói tắt
của “ngủ gà ngủ gật”, chứ không phải là từ láy.
HTC/10/2019
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét