HOÀNG TUẤN CÔNG
Tôi
đã lập tức bị cuốn hút và phấn khích ngay từ trang đầu tiên, cũng là lời tựa ngắn
gọn, giản dị mà đầy kiêu hãnh của chính tác giả. Và dù đã được biết đến “Chuyện lính Tây Nam” qua lời giới thiệu ấn tượng của Nhà báo Trương
Huy San, từng nghe chuyện những người lính từ chiến trường Campuchia trở về,
nhưng những dòng hồi ức của Trung Sỹ vẫn đem đến cho tôi bao nhiêu bất ngờ và cảm
xúc.
Hồi
hộp theo chân chàng lính trẻ bước vào cuộc chiến với “tiếng chó sủa ong óc lúc xóm gần, lúc làng xa như có động vì quân cảnh
đuổi bắt lính trốn” trong đêm “Chủ
nhật cuối cùng” trên đất Bắc; lên “Chuyến
tàu quân sự”; tập kết ở “Trảng Lớn-Tây
Ninh”, pháo Kh’me Đỏ bên kia biên giới nã sang tận bên này. Lửa cháy rực trời…
Nhưng
đó mới chỉ là khúc dạo đầu. Những gì ghê khiếp nhất đang đón đợi ở phía trước của
cuộc viễn chinh-không phải ác liệt nữa-mà là rùng rợn với biết bao hy sinh gian
khổ nơi rừng sâu núi thẳm quê người!
Có
câu hát nào đó “rằng chiến tranh không phải trò đùa”! Nhưng những gì được kể lại
chân thực trong “Chuyện lính Tây Nam”,
lại cho thấy sự khốc liệt, nghiệt ngã tới mức như trò đùa của chiến tranh. Sự sống
và cái chết quá mong manh. Cái chết rình rập, bám theo từng bước chân người
lính, ẩn nấp trong từng gốc cây, ngọn cỏ. Nhiều khi không chết bởi họng súng địch
bên kia chiến hào, mà chết dần chết mòn bởi ma thiêng nước độc, với những hầm
chông, bãi mìn câm lặng.
Đọc
“Chuyện lính Tây Nam” tôi không thấy
cảm giác lan man của thể loại “hồi ức”. Ngược lại, trang nào, mục nào cũng dày
đặc sự kiện, hình ảnh, cảm xúc... Có lẽ trải qua bốn mươi năm, những gì còn đọng
lại trong hồi ức của tác giả, đều là những hình ảnh, câu chuyện thực sự điển
hình, từng gây ấn tượng và tác động mạnh không thể phai mờ. Nhưng chắc hẳn, chính tác
giả cũng đã biết tự dằn lòng để quên đi, làm mờ đi những chi tiết, sự kiện tuy
mãnh liệt, nhưng dễ làm loãng hồi ức về cuộc chiến.
“Chuyện
lính Tây Nam” được chia thành nhiều đề mục nhỏ in đậm, với những cái tên ấn
tượng, gợi mở: “Lên chốt”; “Đập vỡ cây đàn”; “Khế ước cách mạng”; “Tiếng lục
lạc bò”; “Tết chiến trường”; “Lămthon gái goá”; “Giải vây sư 341”; “Chửi nhau
với địch ở Oudong, Uống nước xác người
trong đường sắt”; “Tiếng hú chim
thiêng”; “Lá thư đô thị”; “Vượt đỉnh Aoral”; “Hàng phố bâng khuâng”; “Lung
lay bóng nguyệt”; “Tìm diệt”; “Mùa khô rừng khộp”; “Loạt đạn gọi hồn”; “Buổi chiều máu”; “Tiếng cối đêm sương”; “Ngủ
chung với địch”; “Nữ chiến binh
Kh’mer Đỏ”…
Mục
nào, chuyện nào cũng hấp dẫn, dễ đọc, đáng đọc với đủ mọi cung bậc cảm xúc…
Trong
khói lửa chiến tranh chết chóc, thiên nhiên đất nước Chùa Tháp vẫn hiện lên với
vẻ đẹp vừa hoang sơ quyến rũ, vừa bí ẩn hiểm độc. Đời lính, kiếp lính chiến thời
nào, phía bên nào mà chẳng chịu nhiều khổ đau! Ăn bờ ngủ bụi như thú hoang nơi
rừng sâu núi thẳm. Mỗi một lần hành quân qua thị trấn, hay trở về cứ, là một lần
người lính rừng tưởng như được trở về với thế giới
loài người. Tiếng hát Thanh Tuyền với những ca khúc mang tâm sự người lính Việt
Nam cộng hoà trong cuộc chiến huynh đệ tương tàn vừa kết thúc, nay lại tiếp tục
vang lên, làm lay động tâm hồn người lính Việt trong một cuộc chiến hao mòn
sinh lực khác, đằng đẵng nơi xứ người…
Khi
lần giở từng trang “Chuyện lính Tây Nam”,
tôi nghĩ bụng, sẽ quên đi những dòng giới thiệu hấp dẫn của người khác, để tự
mình cảm nhận. Nhưng dường như suy nghĩ ấy bằng thừa, vì tôi đã mau chóng bị những
dòng hồi ức chiến trường của ngài Trung Sỹ mê hoặc lúc nào không hay.
Cả một tuần đắm chìm, ngơ ngẩn, bần thần với những “Tết quân đội biên giới 1978”; “Chốt Long An tháng 12/1978”; “S’vay Rieng, rạng sáng ngày 3/01/79”…Hồi hộp, lạnh gáy theo từng bước chân, từng chiến hào, ụ mối, rừng khộp, rừng le; với những khi giáp mặt quân thù… Tác giả “Chuyện lính Tây Nam” có bao nhiêu cảm xúc, tôi cũng có bấy nhiêu xúc cảm. Không biết hồi ức có nhắc đến sự kiện Trung Quốc xâm lược, tấn công toàn tuyến biên giới Việt Nam không? Khi còn giao tranh ác liệt với lính Kh’me Đỏ trên đất Camphuchia, những người lính Việt nghĩ về sự kiện ấy như thế nào? Hồi hộp, vừa đọc vừa có ý chờ đợi…Và đây rồi, trang 70: “Ngày 17 tháng 2 năm 1979”…
Cả một tuần đắm chìm, ngơ ngẩn, bần thần với những “Tết quân đội biên giới 1978”; “Chốt Long An tháng 12/1978”; “S’vay Rieng, rạng sáng ngày 3/01/79”…Hồi hộp, lạnh gáy theo từng bước chân, từng chiến hào, ụ mối, rừng khộp, rừng le; với những khi giáp mặt quân thù… Tác giả “Chuyện lính Tây Nam” có bao nhiêu cảm xúc, tôi cũng có bấy nhiêu xúc cảm. Không biết hồi ức có nhắc đến sự kiện Trung Quốc xâm lược, tấn công toàn tuyến biên giới Việt Nam không? Khi còn giao tranh ác liệt với lính Kh’me Đỏ trên đất Camphuchia, những người lính Việt nghĩ về sự kiện ấy như thế nào? Hồi hộp, vừa đọc vừa có ý chờ đợi…Và đây rồi, trang 70: “Ngày 17 tháng 2 năm 1979”…
Đón
nhận những dòng hồi ức được ghi chép bởi một tay bút nghiệp dư, một người
“không phải là nhà văn nhà báo” từng tham gia quân ngũ 40 năm trước. Nhưng đọc
được mươi trang đầu, tôi thấy ngờ ngợ... Đọc thêm chừng 50 trang, tôi từ ngạc nhiên chuyển sang ngưỡng mộ thực sự...
“Chuyện lính Tây Nam” hoàn toàn không phải
là câu chữ của “một người lính bộ binh” đơn thuần, một chàng Trung sĩ đi ra từ
quân ngũ. Nhưng cũng không phải của một “nhà văn quân đội” biết nhào nặn, xây dựng
hình tượng... Có lẽ Trung sĩ Xuân Tùng sinh ra là để cầm bút. Nhưng đời đã sai
khiến ông bước vào cuộc chiến mỏi mòn nơi xứ lạ, với “hơn bốn năm rưỡi dọc dài
các nẻo chiến trường đất nước Chùa Tháp”. Số phận đẩy đưa ông vào cuộc chiến, rồi lại
giúp ông may mắn trở về, để bốn mươi năm sau, khi văn tài đủ chín mới thôi thúc
ông ngồi chép lại những dòng “viễn chinh dật sự” vô cùng sống động, chân thực và đầy kiêu hãnh này.
Người xưa nói rằng, ngôn từ không có chất văn thì không thể
bay xa, lưu truyền (Ngôn nhi
vô văn, hành chi bất viễn-言而無文行之不遠). Có
lẽ sở dĩ “Chuyện lính Tây Nam” hấp dẫn
cuốn hút tôi, ngoài sự góc cạnh, chân thực đáng ngạc nhiên của hồi ức, còn một
lý do quan trọng nữa, đó chính là “chất văn”!. Cái “chất” nhuần nhuyễn, sung
mãn, tự tin của một tay bút nhà nghề; trần trụi, thô ráp mà không kém phần tinh tế lịch lãm và
cực kỳ sống động ấy sẽ góp phần khiến cho “Chuyện
lính Tây Nam” trở thành tác phẩm có tầm vóc, bay xa và lưu truyền với đời.
HTC/16/3/2018
[*]
Chuyện lính Tây Nam-Hồi ức-Trung Sỹ-NXB
Thanh Niên, 2017, 306 trang, khổ 14,5x20,5.
Tui thì ngạc nhiên cái chất văn của ông đó. Lúc đầu thì "sỹ" rồi lại "sỹ" tiếp. May quá rồi cũng "sĩ" rồi lại "sĩ" nữa.
Trả lờiXóa