HOÀNG TUẤN CÔNG
Đây là một trong những thành ngữ mà các nhà nghiên cứu, biên soạn từ điển khá thống nhất trong cách giải thích nghĩa đen:
-“Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam”
(GS. Nguyễn Lân): “SỢ NHƯ BÒ THẤY NHÀ TÁNG (Ngày xưa đám ma có nhà táng là đám
ma nhà giàu mà nhà giàu làm đám ma thường mổ bò làm cỗ). Ý nói: Sợ điều gì có
thể làm hại đến mình”.
-“1575 thành ngữ tục ngữ cần bàn thêm” (Lê
Gia): “SỢ NHƯ BÒ THẤY NHÀ TÁNG. “Nhà táng”: Nhà làm giả bằng tre giấy, đốt
trong đám ma lớn, với mong muốn để cho người chết có nhà mà dùng.
Nghĩa
câu: Trong đám tang lớn của người chết thuộc gia đình giàu có thì mới có nhà mà
táng, sau đó thì giết bò heo để thết đãi bà con thân thuộc trong đám tang. Vậy
nên khi con bò thấy đám tang của nhà chủ có cái nhà táng thì nó lo sợ rằng họ sẽ
giết nó mà đãi ăn. Ý nói sợ như sợ chết. Khi thấy có hiện tượng xấu mà liên
quan tới mình thì mình lo sợ quá”.
-“Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam”
(Vũ Dung-Vũ Thuý Anh-Vũ Quang Hào) đưa ra dị bản: “LO NHƯ BÒ THẤY NHÀ TÁNG. [Như bò thấy nhà táng]. (nhà táng: nhà bằng
giấy úp trên quan tài người chết khi đi đưa đám ma. Chỉ khi nào có đám ma mới
có nhà táng. Khi có đám ma, người ta mổ bò làm thịt). Hoảng sợ trước nguy cơ có
hại cho mình”.
Như vậy, các nhà nghiên cứu và biên soạn
từ điển đều thống nhất giải thích nghĩa đen: vì đám ma hay mổ bò, nên khi nhìn
thấy nhà táng thì con bò lo sợ sẽ đến lượt nó bị người ta làm thịt. Tuy nhiên, theo chúng tôi, cách giải thích này cần
xem lại, vì một số lẽ:
- Xưa kia, nuôi trâu bò chủ yếu dùng
làm sức kéo phục vụ sản xuất. Chính quyền phong kiến cấm giết mổ trâu bò bừa
bãi, phạt tội ăn trộm trâu bò rất nặng. Theo đó, việc mổ trâu bò để làm ma (kể
cả đối với nhà giàu) cũng rất hãn hữu. Mà đã hãn hữu, thì không đủ để tạo nên ấn
tượng, nếp nghĩ, cứ đám ma là mổ bò.
- Giả sử trong thực tế có chuyện hễ có
đám ma là mổ bò, thì dẫu nhìn thấy nhà táng, con bò cũng không thể biết được sự
nguy hiểm đến tính mệnh của nó. Bởi vì, với con bò, đám cưới, đám ma, hay bất cứ
lễ hội, đình đám gì (mổ bò hay mổ trâu, mổ lợn; nhà táng hay cái kiệu hoa, kiệu
bát cống), nó đều không nhận thức, phân biệt được. Nếu sợ, có chăng nó chỉ sợ
khi trực tiếp nhìn thấy đồng loại của nó bị giết ngay trước mắt, chứ không phải
vì nhìn thấy nhà táng, nghĩ đến đám ma, nghĩ đến phong tục mổ bò làm ma, rồi
liên tưởng đến cái chết (vì sắp đến lượt mình). Đó là kết quả của tư duy, liên
tưởng của con người, chứ không phải của loài vật.
Theo chúng tôi, nghĩa đen “Sợ như bò thấy nhà táng” liên quan
đến tập tính của con bò và hình thù cái nhà táng.
Đúng
như các nhà nghiên cứu và biên soạn từ điển đã giảng. “Nhà táng” ở đây là nhà bằng
giấy hoặc vải, có trang trí, úp trên quan tài khi đưa đám ma. Tuy nhiên, nhà
táng có thể là loại chỉ sử dụng một lần (xong là đốt luôn cho người chết; thành
ngữ “Vén tay áo sô, đốt nhà táng giấy”). Cũng có khi nhà táng được làm chắc chắn
để sử dụng nhiều lần (gỗ, sơn thếp, hoặc khung gỗ, sắt, trang trí bằng vải). Thông
thường, mỗi làng, xã có một vài cái nhà táng loại này. Bởi vậy, ngoại trừ hạng
cùng đinh, “khố rách áo ôm”, thì khi chết mới không có nổi cái nhà táng giấy đặt
lên quan tài.
Nhà
có người chết, thì một trong những đồ tế khí được làm, hoặc mang tới đầu tiên,
đó là nhà táng. Nhà táng để sẵn ở đầu ngõ, hoặc đầu trục đường đi vào lối ngõ
nhà có đám, có khi tới 2-3-4 ngày, trước khi đưa ma. Người viếng đám ma, dù ở xa
hay gần, đến đầu ngõ, nhì thấy nhà táng, nghe tiếng trống kèn là biết ngay đường
vào.
Đường
ngõ xưa chật hẹp, trâu bò (khu vực đường ngõ có đám ma) ra đồng hay về nhà, đều
phải đi ngang qua cái nhà táng ấy. Trong mắt con bò, cái nhà táng chẳng khác
nào con quái vật, to lớn, màu sắc sặc sỡ, vằn vện. Mái nhà táng cong cong, chìa
ra như những chiếc sừng thú kì dị; riềm, tua vải bay phần phật, phấp phới tựa
như con quái vật đang cựa mình chực lao tới. Thế nên, khi phải đi ngang qua nhà
táng, thì con bò sợ hết hồn hết vía.
Ban đầu nó ngần ngại dừng bước. Người ta dắt thừng buộc nó đi qua, thì bốn chân bò bước lập cập như chạy, khi đến gần thì mắt bò trợn lên, mồm há ra, phát tiếng kêu ồ ồ kinh hãi. Có con bò nép sát bờ rào, len lén, vừa đi vừa dè chừng rồi chạy vụt đi thật nhanh; có con hoảng hốt, giật cả giây thừng, nhảy quàng nhảy quáng, lồng lên chạy mất biến.
Ban đầu nó ngần ngại dừng bước. Người ta dắt thừng buộc nó đi qua, thì bốn chân bò bước lập cập như chạy, khi đến gần thì mắt bò trợn lên, mồm há ra, phát tiếng kêu ồ ồ kinh hãi. Có con bò nép sát bờ rào, len lén, vừa đi vừa dè chừng rồi chạy vụt đi thật nhanh; có con hoảng hốt, giật cả giây thừng, nhảy quàng nhảy quáng, lồng lên chạy mất biến.
Vấn đề là tại sao con bò lại hiện diện trong thành ngữ, chứ
không phải trâu, hay ngựa?
Trâu tuy chậm chạp, nặng nề, nhưng bù lại có sức
vóc cực khoẻ, cặp sừng làm vũ khí rất lợi hại. Bình thường, trâu có vẻ nặng nề,
nhưng khi “lâm trận” thì cực dũng mãnh, gan lì, sẵn sàng nghênh chiến, chống lại
cả hổ báo, sư tử. Ngựa không chỉ khoẻ, mà còn có thể tung ra cú đá hậu song phi
như trời giáng. Nếu đến nước phải “tẩu vi thượng sách” thì ngựa tung bốn vó phi
nước đại…Đó chính là lý do để trâu ngựa tự tin hơn trước những mối đe doạ trong cuộc cạnh tranh sinh tồn... Trong khi đó, bò tuy húc cũng biết, đá cũng hay (kể cả đá song phi tầm
thấp), nhưng sức vóc và lực ra đòn của bò chỉ thuộc diện làng nhàng, kém xa so
với trâu, ngựa. Bò tuy nhanh nhẹn hơn trâu, nhưng nếu cần chạy thoát thân, thì
cũng chẳng nhanh hơn trâu, và kém xa ngựa. Có lẽ chính bởi vậy, mà trời phú cho
bò một thứ vũ khí phòng thân (bản năng tự vệ) khác, đó là cái tính “nhát” (phương ngữ Thanh Hoá gọi là “nản”). Bò dè chừng,
cảnh giác, và tránh xa tất cả những “vật thể lạ” có thể là mối đe doạ đến tính
mạng của nó.
Với trâu, ngựa, không phải chúng hoàn toàn không sợ khi nhìn thấy nhà táng, hay vật thể lạ. Tuy nhiên, chúng ít sợ, và kiểu sợ, dè chừng của chúng rất khác. Trâu thì dừng lại quan sát, nghênh sừng lên, có khi mắt long sòng sọc, vừa phì phì gẩy sừng, nửa như đe doạ, xua đuổi đối phương, nửa như sẵn sàng nghênh chiến. Với ngựa, thì dẫu có sợ hãi bỏ chạy, thì thói quen hý vang, nhảy chồm lên, hoặc đi, chạy như phi của nó cũng chẳng có gì ấn tượng như nỗi khiếp đảm, run rẩy ở bò.
Với trâu, ngựa, không phải chúng hoàn toàn không sợ khi nhìn thấy nhà táng, hay vật thể lạ. Tuy nhiên, chúng ít sợ, và kiểu sợ, dè chừng của chúng rất khác. Trâu thì dừng lại quan sát, nghênh sừng lên, có khi mắt long sòng sọc, vừa phì phì gẩy sừng, nửa như đe doạ, xua đuổi đối phương, nửa như sẵn sàng nghênh chiến. Với ngựa, thì dẫu có sợ hãi bỏ chạy, thì thói quen hý vang, nhảy chồm lên, hoặc đi, chạy như phi của nó cũng chẳng có gì ấn tượng như nỗi khiếp đảm, run rẩy ở bò.
Điều
đáng chú ý, một số từ điển tuy không giải thích nghĩa đen, nhưng cách giải
thích nghĩa bóng là đúng:
-“Thành
ngữ tiếng Việt” (Nguyễn Lực-Lương Văn Đang): “SỢ NHƯ BÒ THẤY NHÀ TÁNG: Sợ hãi,
hốt hoảng: “Ông trông mặt dữ tợn lại nghiêm, nên mọi người sợ ông như bò thấy
nhà táng”. Xem thêm: “Hết hồn hết vía”.
-“Từ
điển thành ngữ Việt Nam” (Nguyễn Như Ý-Nguyễn Văn Khang-Phan Xuân Thành): “SỢ
NHƯ BÒ THẤY NHÀ TÁNG: Quá hốt hoảng, sợ hãi đến mức chạy biến, lẩn trốn, không
dám ở lại hoặc ngồi đối mặt nhau lâu. Từ
cái vụ tôi xạc nó cái tội làm ăn dối trá, gian lận đến bây giờ hễ thấy tôi là
cu cậu lại sợ như bò thấy nhà táng ấy”.
Xưa
kia, cuộc sống làng xã khép kín, nhà táng là một “vật thể lạ” điển hình, nếu
không nói là duy nhất, mà con bò không nhìn thấy hàng ngày. Theo đó, thời hiện đại, nếu con bò nào ít tiếp xúc với ô
tô, hay đơn giản thấy lá cờ bay phần phật bên đường, tấm vỏ chăn chăn sặc sỡ
phơi trên rào; rồi cái rạp đám cưới có phông màn bay phấp phới, nó đều sợ hoảng
hồn, chẳng khác nào thấy nhà táng (ai từng đi chăn bò, hoặc sống ở thông quê, sẽ
thấy điều này). Bởi vậy, “Sợ như bò thấy nhà táng” là cái sợ khi con bò trực diện
nhìn thấy một vật lạ, chứ không phải nỗi sợ của sự liên tưởng về sự nguy hiểm (phong
tục mổ bò làm đám ma) diễn ra phía sau cái nhà táng ấy. Theo đó, dị bản “LO NHƯ
BÒ THẤY NHÀ TÁNG” (do nhóm Vũ Dung thu thập) chỉ là sản phẩm của sự nhầm lẫn
khi hiểu về nghĩa đen của “SỢ NHƯ BÒ THẤY NHÀ TÁNG” mà thôi.(*)
HTC/11/2017
(*) Đáng
chú ý, trong sách “1575 thành ngữ tục ngữ
cần bàn thêm”, Lê Gia có dẫn cách giải thích của một cuốn từ điển (không thấy
ghi rõ tên): “Trên nhà táng còn có tàn, lọng, cờ quạt…Sau
khi chôn cất xong, nhà táng đốt cạnh mộ. Loài bò thấy cái gì là lạ là ưa đến
nhìn. Nhưng cũng chính cái lạ đó đã làm cho chúng sợ. Nhà táng có sức hấp dẫn
loài bò, nhưng gió động rung rinh nên bò sợ nhà sập phải cong đuôi chạy. Ngụ ý
câu này nói đến nỗi sợ hãi do hốt hoảng mà nên.(?)"
Theo đó, Lê Gia chê cách giải thích này:
"Theo
chúng tôi: Nhà táng chỉ có sức hấp dẫn loài bò thôi chứ không hấp dẫn loài nào
khác sao? Con bò thấy nhà táng bị gió thổi hơi rung rinh nên sợ nhà sập mà bỏ
chạy, vậy đâu có phải là “ngu như bò”, ngoài việc sợ nhà táng sập, còn bò không
sợ cái gì nữa sao? Vị tác giả này giàu óc tưởng tượng quá!”
Quả
thật, tác giả cuốn từ điển nào đó đã mâu thuẫn, vì nếu “Sau khi chôn cất xong, nhà táng đốt cạnh mộ”, thì còn đâu nhà táng
để con bò phải sợ. Mà bãi tha ma mênh mông, nếu con bò sợ nhà táng trên mộ, nó sẽ chủ động tránh đi. Cũng không có căn cứ nào để nói, loài bò thấy cái gì
lạ thì ưa đến nhìn, rồi cũng chính cái lạ đó làm chúng sợ, mà sợ “nhà sập”, lại càng khó tưởng tượng,
bởi con bò đâu chui vào cái nhà táng ấy đâu mà “sợ sập”? Bò cũng đâu biết hoạ “nhà sập” là thế nào.
Theo đó, xét cách giải thích của Lê Gia: “khi con bò thấy đám tang của nhà chủ có cái
nhà táng thì nó lo sợ rằng họ sẽ giết nó mà đãi ăn”, cũng “giàu óc tưởng tượng” không kém. Tuy nhiên, công bằng nhìn nhận, thì cách giải thích của tác giả từ điển nọ, theo hướng chính xác hơn các tác giả khác, tức con bò sợ hình ảnh nó nhìn thấy trực diện, chứ không phải là nỗi sợ vụt đến trong ý nghĩ, kết quả tư duy về tục mổ bò làm ma.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét