23 thg 9, 2015

NON NƯỚC THẦN PHÙ

                            HOÀNG TUẤN PHỔ

Chữ "Thần" trên vách đá cửa biển Thần Phù
                                                                             Ảnh Báo Dân Trí
Trong lịch sử nghìn xưa Đại Việt, non nước Thần Phù là danh sơn thắng địa bậc nhất trong 12 cửa biển, mặc dù dân gian vẫn truyền tụng:
  Lênh đênh qua cửa Thần Phù
Khéo tu thì nổi, vụng tu thì chìm!
          « Tu » gì ? Tu tiên hay tu phật ? Tục truyền trên núi Thần Phù thuở xưa, La Viện chân nhân tu hành đắc đạo, trổ phép thần thông dẹp tan sóng to gió dữ, cứu giúp thuyền mảng ra vào, qua lại cửa biển Thần Phù, mang danh hiệu Áp Lãng chân nhân.

           Sông Thần Phù từ bến Tuần Chính Đại chảy xuống uốn lượn quanh chân núi Thần Phù như lưu luyến không muốn chia xa, nhưng cuối cùng cũng đành phải đổ ra cửa biển Đông. Có lẽ vì thế cửa Thần Phù hay nổi cơn giận dữ, gây sóng gió bất thường? Nhưng cửa Thần Phù, sông Thần Phù cùng với núi Thần Phù đã đẹp duyên, phối cảnh tạo nên một vùng non nước tráng lệ, núi sông hùng vĩ.

          Tên trước của Thần Phù là Thần Đầu. Tương truyền Lê Thánh tông trên đường về quê Lam Sơn thăm viếng Lam Kinh, qua đây thấy núi non trùng điệp những rồng bay, phượng múa, tàn lộng rợp trời, voi phục ngựa chầu, nhà vua ngẫu hứng giơ ngón tay trỏ lên, hướng về vách núi cao đẹp, viết qua không gian một chữ THẦN (Hán tự). Sau người ta bỗng thấy trên đó hiện lên lờ mờ nét chữ, rồi dựa vào khắc sâu cho rõ thêm nét chữ, thành «Bia Thần ». Từ đây, «Thần Đầu » đổi ra Thần Phù (Đại Nam nhất thống chí). Lại có thuyết nói chúa Trịnh Sâm, ông chúa lừng danh si tình hay thơ, du ngọan thế giới thần tiên này đã sai khắc lên đó một chữ THẦN to tướng (Hoàng Việt nhất thống dư địa chí).

         
Non nước Thần Phù
                                                        Ảnh: VTC News
Tuy nhiên, Nguyễn Trãi, (trước cả Trịnh Sâm, Lê Thánh tông) đã nói đến tên Thần Phù trong hai bài thơ chữ Hán của mình: "Quá Thần Phù hải khẩu""Thần Phù hải khẩu".

THẦN PHÙ HẢI KHẨU

Cố quốc quy tâm lạc nhạn biên,
Thu phong nhất diệp hải môn thuyền.
Kình bôn, lãng hống lôi Nam Bắc,
Sóc ủng liên sơn ngọc hậu tiền.
Thiên địa đa tình, khôi cự tẩm
Huân danh thử hội tưởng đương niên.
Nhật tà ỷ trạo thương mang lập
Nhiễm nhiễm hàn gian khởi mộ yên.
                        Nguyễn Trãi

Dịch thơ : CỬA BIỂN THẦN PHÙ

Nhớ nước lòng theo bóng nhạn côi,
Đậu thuyền cửa biển lá thu rơi.
Sóng kình tựa sấm rung Nam – Bắc
Núi giáo như măng dựng đất trời.
Non nước đa tình khơi biển lấp,
Công danh mấy hội gửi sông trôi.
Dựa chèo bóng xế mênh mang đứng,
Khói tỏa sông chiều nước  lạnh xuôi

                                   (Hoàng Tuấn Phổ dịch)

          Nguyễn Trãi 20 tuổi (1.400) đỗ tiến sĩ đời Hồ, được bổ dụng ngay chức quan Ngự sử. Năm 1407, quân Minh xâm lược, cha ông, Nguyễn Phi Khanh bị bắt cùng họ Hồ đưa về Trung Quốc. Bài cửa biển Thần Phù có lẽ tác giả viết trên đường vào Thanh Hóa tìm minh chủ cứu nước, khi con thuyền nghỉ đậu ở cửa biển Thần Phù như một chiếc lá bị gió thu thổi lạc vào. Ông mang khối buồn muôn nỗi giữa cảnh trời nước mênh mang, nhưng bức tranh thiên nhiên Thần Phù không vì “người buồn cảnh có vui đâu", vẫn uy nghi hùng tráng, sóng dữ thét gào như sấm, núi non điệp trùng cả rừng cây măng mọc dựng lên lớp lớp trường thành.

          Thời Trần, Tể tướng Nguyễn Trung Ngạn, một thi bá, hễ có dịp lại du ngoạn núi sông, đến Thần Phù, dạt dào thi hứng, tức cảnh đề thơ:

Phiên âm:
“Ba đào nhật cước tán hà hồng,
Vô hạn ngư gia lạc chiếu trung.
Nhất thủy bạch tòng thiên thượng lạc,
Quần sơn thanh đáo hải môn không.”

                         Nguyễn Trung Ngạn

Dịch thơ:
Vầng hồng giỡn sóng ráng trời pha
Ngàn ngạt thuyền ngư đậu bóng tà.
Nước bạc tận trời sông chảy mãi
Non xanh tới biển, núi chìm xa.

                        (Hoàng Tuấn Phổ dịch)

  Sách địa lý phong thủy nói về núi Tam Điệp như con rồng chắn ngang Giao Chỉ - Cửu chân, tách ra làm hai con rắn thần lượn đến núi Thần Phù rồi lặn xuống biển Đông, bỗng ngoi đầu nổi vọt lên làm hòn Đầu Trâu hướng tới phương Nam. Đó là “địa cục” Gia Miêu, làng quê họ Nguyễn, thời Lê Trung hưng, Nguyễn Hoàng đã từ giã Tống Sơn, Thanh Hoa “mang gươm đi mở nước” và đã mở đất từ núi Hoành Sơn đến tận tỉnh An Giang. Thời phong kiến, hòn Đầu Trâu, vì nhô lên hai cái sừng nên gọi là Song Ngưu. Lại có tên hòn Thiên Trụ (cột chống trời), hòn Chích Trợ (núi Chiếc Đũa). Thơ Trịnh Sâm viết:

Nhất vọng thương mang hải sắc thu
                  Thủy trương Chích Trợ chướng hoành thu

(Biển biếc mênh mông xa ngắm trông,
Ai đem chiếc đũa chắn ngang dòng? – HTP)

          Nay, Chích Trợ sơn hay Thiên Trụ sơn mọc lên từ dưới lòng đất, những làn sóng xanh biếc vây quanh đã hóa thành luống khoai, ruộng lúa xanh rờn, nhưng vẻ thần tiên trong lời thơ Tĩnh Vương vẫn còn phảng phất khi sương sớm huyền ảo, lúc mây chiều bảng lảng.

          Núi dễ lở, sông hay bồi. Những dòng hải lưu từ sông Hồng, sông Đáy, suốt mấy trăm năm không biết mệt mỏi, ngày đêm đem phù sa tạp chất về bồi lấp cửa biển Thần Phù  cho đến bến tuần Chính Đại thành một dải đất dài rộng, đồng nội bát ngát, xóm thôn trù mật của miền đông bắc huyện Nga Sơn. Tuy nhiên, những bia Thần, động Tiên kề bên cõi tục vẫn chung sống hài hòa, cùng tạo nên một vùng danh sơn thắng địa đặc sắc và độc đáo, xứng danh “Nam thiên đệ nhất” như người xưa đã nói.

          Hướng về ngọn Bia Thần, động Bạch Nha (tức Bạch Á, Bạch Ác), tượng Phật ngồi trên tòa sen, mắt lim dim, miệng mỉm cười hoan hỉ nghe thấy bước chân La Viện chân nhân đang về đây, khi “kình phun sóng thét” đã lùi xa… Cùng xã Nga Thiện, động Bích Đào, nơi Từ Thức lạc bước Thiên Thai, cũng là chốn Bồng Lai lôi cuốn du khách bốn phương vào thăm thú cõi tiên.

          Tháng 2 mùa xuân Tân Mão (1771), Chúa Trịnh Sâm mang tâm hồn say thơ với trái tim si tình đến động Bích Đào hỏi thăm chàng Từ Thức thất tình, vì một phút “vụng suy” nên duyên phận lỡ làng, để nàng Giáng Hương nghìn thu cô quạnh! Nhà chúa lưu bút chia buồn cùng giai nhân:

ĐỘNG TỪ THỨC

Nguyên tác:
Chu trình thừa hứng phỏng Từ Lang,
Động khẩu y thiên tỏa tịch dương
Bích quải nghê thường quang ỷ tri
Thạch xao phong vũ hưởng cung thương.
Tiên duyên sự tích tam sinh kế
Triền hải kinh kim kỷ độ dương.
Mạc thuyết Dao trì dư tuấn nhật,
Tư du hà dị lãng Bồng Hang?

Dịch thơ:
Dừng thuyền cao hứng hỏi Từ Lang
Cửa động chiều hôm khóa nắng vàng.
Xiêm áo nhuộm trần treo vách gấm,
Gió mưa gõ đá dạo cung đàn
Ba sinh hương lửa nên hò hẹn,
Mấy độ tang thương hóa lỡ làng !
Ai bảo cung tiên ngày chóng hết ?
Đào Nguyên đừng hỏi lối nào sang !

                                  (Hoàng Tuấn Phổ dịch)

          Ngoài cửa động có miếu thờ Bích động tiên sơn Linh Bà, vị tiên mẫu đã xe duyên cho Giáng Hương – Từ Thức. Người đời không nghĩ bà đã xe sợi tơ hồng mong manh quá mà « trách chàng Từ Thức vụng suy – Đã lên cõi Bụt tiếc chi cõi trần ! ». Ai bảo các chàng trai, cô gái, những Từ Thức tân tiến, Giáng  Hương tân thời không nhờ Tiên Bà giúp cho một tay?

          Xã Nga Thiện còn đền thơ nữ tướng Lê Hoa cùng bốn con trai giúp hai bà Trưng khởi nghĩa đánh quân Hán xâm lược, sau chiến thắng, không nhận quan tước, lại trở về đất Nga Sơn khai phá ruộng hoang, lập nên trang ấp, nêu cao tấm gương kim cổ.

          Không xa động Từ Thức, là động Lục Vân (xã Nga Điền), phong cảnh u tịch, thanh nhã, núi non trùng điệp, cây cối xanh um, hướng nhìn ra một dải sông dài và đồng nội xa tít tắp… Cửa động cao 10 cấp, bên trong nhiều hình tượng đẹp kỳ lạ. Một nghiên mực lớn bằng đá trắng, như thần tiên xoi tạc dành sẵn mời thi nhân dầm ngọn bút lông đề thơ ngâm vịnh. Bộp y phục xiêm, áo, mũ đai và con rồng hóa đá, đầu cất cao, đuôi quật xuống, chứng tích chuyện xưa tiên nữ cưỡi rồng từ thượng giới xuống chơi rồi mến cảnh say tình ở lại…

          Tại đây, từng diễn ra cuộc xướng họa thơ đông vui, đầy thi vị của hội thơ Tao Đàn, do Lê Thánh tông làm «Đại nguyên soái», lấy «Động Lục Vân», chốn thần tiên giữa cõi trần gian làm đầu đề chung.

          Hằng năm, mùa xuân, Lê Thánh tông từ kinh đô Thăng Long về Thanh Hoa thăm viếng đất tổ Lam Sơn, dừng thuyền rồng tạm nghỉ hành cung trên bến Thần Phù. Rồi nhà vua du ngọan núi sông, mỗi lần lại khám phá thêm điều mới mẻ, nét đẹp biến hóa kỳ diệu của non nước Thần Phù. Vua Lê Hiển tông kế nghiệp Thánh tông, lúc còn làm Hoàng thái tử đã ba lần được theo hầu Phụ hoàng tới Thần Phù. Với tâm, hồn thi sĩ của ông vua say ngắm cảnh trí giang sơn gấm vóc, Lê Hiến tông cũng lưu bút:

ĐỀ LỤC VÂN ĐỘNG

Săm nha, ngoan thạch ỷ thiên khai,
Nam quốc sơn hà tín mỹ lai.
Ức tích bồi van tam độ chí
Như Kim y cẩm lục phi lai.
Sơn dung nhật noãn trang hồng ngạc,
Thạch kính tình đa tú lục đài
Khởi tất phạm cung xưng lạc thổ,
Suất tân xích tử thướng xuân đài.

                                            LÊ HIẾN TÔNG

Dịch thơ:
Động đá chênh vênh đứng giữa trời,
Đẹp thay sông núi Việt muôn đời.
Ba lần độ trước vua cho dự,
Sáu ngựa hôm nay trẫm đến chơi.
Cây phủ sườn non hoa đỏ thắm,
Rêu phơi đường đá sấc xuân tươi.
Thiên đường không ở riêng chùa núi,
Phúc lớn mưa nhuần thấm khắp nơi.

                           (HOÀNG TUẤN PHỔ dịch)

          Rất nhiều danh sĩ thi nhân trong nước đã đến du ngọan Thần Phù như Đỗ Nhuận, Lê Quý Đôn, Ngô Thì Sĩ, Lê Tương Dực, Lê Tuấn Ngạn, Nguyễn Xung Xác,… và lưu bút đề thơ, để lại những vần thơ tuyệt tác.

           Với chúng ta ngày nay, biết bao điều kỳ diệu, vẻ hùng thiêng một vùng non nước Thần Phù chưa được khám phá: Con trâu Gia Miêu (núi Đầu Trâu) sao không theo Nguyễn Hoàng vào Nam mở cõi mà ở lại mê mải cày ruộng Nga Sơn? Mai An tiêm mang cả đảo hoang ngoài khơi về đất liền cùng quả dưa hấu mát rượi trưa hè khi du khách đến thắp hương đền tưởng niệm? Động đá Duyên Vân, động Chợ tiên, Ông già chăn dê uống rượu đào tiên say khướt, ngủ quên bỏ lại đàn dê hóa đá ? Động Lã Vọng, lão câu cá sông Vị Thủy bên Tàu sang Nam Việt câu trộm cá biển Đông, bị «kình phun sóng thét » sợ hết hồn trốn vào hang đá? Núi Vân Lỗi đỉnh bằng có phải là sân chơi tạo hóa? Tại sao dân gian nói «Cơm Chính Đại làm hại Thần Phù" ?  Đã có ai đã thử trèo chiếc thang mây chênh vênh chín bậc trước cửa Thần Phù bắc ra biển Đông ?,…

                                                                                    HTP/9/2015
                 








1 nhận xét:

  1. Những bài thơ ấy nếu có thêm chữ Hán và hình ảnh ma nhai nữa thì tuyệt.

    Trả lờiXóa