Anh lùn xem hội Tranh minh hoạ của Tàu |
HOÀNG TUẤN CÔNG
-“Từ điển từ và ngữ Việt Nam” (GS
Nguyễn Lân) giải thích: “anh lùn xem hội •
ng. Câu hài hước nói đến sự thiệt thòi của người ở địa vị thấp kém <> Trong hội nghị quốc tế đó, tôi chỉ là một
anh lùn xem hội!”.
-“Việt Nam tự điển” (Lê Văn Đức): “Anh
lùn xem hội thng. Thiếu cả phương
tiện mà phải đương đầu với việc khó khăn, quá sức”.
“Từ điển
tục ngữ Việt” (Nguyễn Đức Dương): “Anh
lùn xem hội Anh lùn mà xem hội (ắt sẽ phải chịu thua thiệt đủ đường). Hay
dùng để than phiền về tình cảnh mà những người lùn hay phải hứng chịu khi sống ở
đời”.
-“Về cội
nguồn thi ca Việt Nam” (Lê Gia): “Anh
lùn xem hát: Xem hát thường đông người, anh lùn bị anh cao che chắn, khó nhìn, khó xem. Nghĩa bóng:
ngườu hèn kém phải chịu thua thiệt”.
Như vậy, qua 4 nguồn tài liệu,
cách giải thích thành ngữ “Anh lùn xem hội” (dị bản “Anh lùn xem hát”) khá thống
nhất.
Tuy nhiên, “Anh lùn xem hội” vốn
không có nghĩa như các nhà nghiên cứu và biên soạn từ điển giải thích. Đây là một
thành ngữ gốc Hán “Uỷ tử khán hý” 矮子看戲 (Chú lùn xem kịch), dị bản “Uỷ nhân khán hí/trường” 矮人看戲/場 (Người
lùn xem kịch). Thành ngữ gốc Hán này được hiểu như sau:
-“Hán
điển” giải thích: “Chú lùn xem kịch: ví như tuỳ tiếng
khen chê của người khác, mà phụ hoạ theo, không hề có chút ý kiến riêng của
mình. Nghĩa là chỉ biết phụ hoạ theo người khác, không có chủ kiến của chính
mình; cũng ví với người kiến thức, hiểu
biết hạn chế.” (nguyên văn: 矮子看戲, 比喻隨聲附和; 毫無己見. 比喻只知道附和别人,自己没有主见. 也比喻见识不广 - uỷ tử khán hý, tỉ dụ tuỳ thanh phụ hoạ, hào vô
kỉ kiến. Tỉ dụ chỉ tri đạo phụ hoạ biệt nhân, tự kỉ một hữu chủ kiến. Dã tỉ dụ
khiến thức bất quảng).
-“Hán
ngữ đại từ điển” giải thích: “Chú lùn xem kịch: ví người không có
sở kiến của riêng mình, mà chỉ tuỳ theo người khác mà phụ hoạ. “Chu Tử ngữ loại” viết: ‘Giống như chú lùn xem kịch, thấy người đằng
trước cười, anh ta cũng cười’. Dị bản “Người lùn xem hội”. Đời nhà Thanh, Triệu
Dực [Luận thi] có thơ rằng: Chú lùn xem kịch đâu nhìn thấy/Hay dở dựa
theo để phẩm bình.” (nguyên văn: 矮子看戲 ǎi zǐ kàn xì. 喻己無所見而隨聲附和. [朱子語類] 卷二七: “正 如 矮子看戲一般, 見前面人笑, 他也笑.” 亦作 “矮人看戲”. 清 趙翼 [論詩] 詩: “矮人看戲何曾見,都是隨人說短長-Dụ kỉ vô sở kiến
nhi tuỳ thanh phụ hoạ. [Chu tử Ngữ loại]
quyển nhị thất: chính như uỷ tử khán hí nhất ban, kiến tiền diện nhân tiếu, tha
dã tiếu”. Diệc tác ‘Uỷ nhân khán hý’. Thanh Triệu Dực [Luận thi] thi: “Uỷ nhân
khán hí hà tằng kiến/Đô thị tuỳ nhân thuyết đoản trường”).
Như
vậy, tuy không có khả năng nhìn thấy tận mắt trò diễn trên sân khấu, nhưng anh
lùn lại luôn tỏ vẻ như mình cũng đang xem và hiểu được trò diễn như tất cả mọi
người; người ta bình phẩm, khen chê thế nào, anh lùn cũng ồ lên bình phẩm, khen
chê thế ấy. Nghĩa bóng thành ngữ ám chỉ những kẻ trình độ, kiến văn hạn chế, nhưng
luôn cố chứng tỏ rằng mình cũng hiểu biết như ai, bằng cách phụ hoạ, nói theo
người khác.
Thành
ngữ, tục ngữ có khi đa nghĩa. Ngoài nghĩa gốc, chuyện nảy sinh nghĩa mới là
hoàn toàn bình thường. Tuy nhiên, thành ngữ gốc Hán “Anh lùn xem hội” vốn có nội
dung châm biếm kẻ “lùn kiến thức”, không có khả năng phản biện, hay đưa ra
chính kiến, mà chỉ biết nói theo người khác. Do các nhà nghiên cứu và biên soạn không truy được nguồn gốc, nên
đã dừng ở mức giải thích thành ngữ theo kiểu “tự nhiên chủ nghĩa”: sự thiệt thòi mà những người ở địa vị thấp
kém phải chịu, vô tình tầm thường
hoá cách ví von, so sánh rất thâm thuý của dân gian. Bởi vậy, theo chúng tôi,
trường hợp chấp nhận nghĩa mới, thì khi giải thích, phải dẫn được cả nghĩa
chính, nghĩa vốn có của câu thành ngữ gốc Hán.
Trong
số hàng chục cuốn từ điển chúng tôi có trong tay, duy chỉ “Từ điển thành
ngữ và tục ngữ Việt Nam” của Nhóm Vũ Dung-Vũ Thuý Anh-Vũ Quang Hào
(tuy không dẫn được bản gốc Hán “Uỷ tử khán hí”), nhưng cách giảng sau đây cơ
bản là đúng: “anh lùn xem hội Ngđ: Anh lùn đi xem hội đứng sau không nhìn
được, đành thấy người ta khen chê gì thì mình theo nấy. Ngb: Theo đuôi mà phụ
hoạ”.
HTC/11/2018
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét