![]() |
Putin tưởng sẽ nuốt trửng được Ukraine trong vòng 24 giờ |
Cứ
theo như trên thì viết “nuốt trửng” là sai chính tả. Tuy nhiên, thực tế không
phải vậy.
Hàng
chục cuốn từ điển chúng tôi có trong tay ghi nhận cả hai cách viết “nuốt chửng”
và “nuốt trửng”:
-Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên –
Vietlex) mục “nuốt trửng”, ghi chú
đây là cách viết “cũ hoặc phương ngữ”,
và hướng dẫn xem “nuốt chửng”. Như vậy,
nhà biên soạn từ điển vẫn ghi nhận “nuốt trửng” nhưng hướng tới cách viết phổ
biến hơn là “nuốt chửng”.
-Việt Nam tự điển (Hội Khai trí Tiến đức
- 1931) thu thập “nuốt trửng”, với nghĩa “Nuốt
vật gì mà không nhai”, và lấy ví dụ “Cho
viên thuốc vào mồm mà nuốt trửng”. Sách này không xếp “nuốt chửng” một mục
riêng, nhưng ở mục “chửng”, giảng là “Ngay
thẳng, không vướng-víu”, và lấy ví dụ “Nuốt
chửng, bổ chửng.”.
-Việt Nam tự điển (Lê Văn Đức – 1970),
không ghi nhận “chửng”, “nuốt chửng”. Ở mục “trửng”, sách này giảng là “Trộng, gọn, trọn một lần”, và lấy ví dụ
“Con chó nuốt trửng miếng thịt; việc
không xong mà nuốt trửng ngàn bạc!”. Mục “nuốt trửng”, giảng là “Nuốt
trộng”, và chú như “Nuốt tươi và nuốt
trôi”.
-Việt ngữ chánh tả tự vị (Lê
Ngọc Trụ – 1967) chỉ ghi nhận từ “nuốt trửng”, không có “nuốt chửng”.
-Tự điển tiếng Việt phổ thông (Đào Văn Tập – 1951), chỉ ghi nhận từ “nuốt trửng”.
-Việt Nam tân tự điển (Thanh Nghị – 1951), cũng chỉ ghi nhận từ “nuốt trửng”.
-Tự điển Annamite - Francais
(LM. Génibrel – 1898), cũng chỉ ghi nhận từ “nuốt trửng”.
Đáng
chú ý, nhiều sách thu thập từ “nuốt trộng” với nghĩa giống như “nuốt chửng”, “nuốt
trửng”. Ví dụ, Từ điển tiếng Việt
(Hoàng Phê – Vietlex) giảng “nuốt trộng” là “nuốt chửng” và lấy ví dụ “thằng bé nuốt trộng cả miếng bánh”. Việt Nam tự điển (Hội Khai trí Tiến đức)
cũng ghi nhận “nuốt trộng” và giảng là “Cũng
nghĩa như nuốt trửng”.
Nhiều
cuốn từ điển cổ chỉ ghi nhận “nuốt trộng” chứ không phải “nuốt trửng”, như: Đại Nam quấc âm tự vị (Huình Tịnh Paulus
Của – 1885, 1896); Tự điển Annam - Latin
(GM. Taberd – 1883); Tự điển Francais -
Anamite (Trương Vĩnh Ký – 1884).
Đáng
chú ý, Đại Nam quấc âm tự vị giảng “trộng”
là “Lớn, khá lớn và còn nguyên”; “trộng
trộng” = “Lớn vừa, không phải nhỏ”; “trộng trơn” = “Lớn mà nguyên vẹn. Hột gạo
trộng trơn”; “Trộng hột” = “lớn hột”; “trộng đứa” = “Lớn đứa, không phải nhỏ”;
“Ăn cơm trộng” = “Ăn cơm nguyên hột; ăn lấy một mình khỏi phải nhai. (Con
thơ)”; “Nuốt trộng = “Nuốt vật gì lớn mà không nhai trước”.
Như
vậy, căn cứ vào sự xuất hiện của từ ngữ qua các cuốn từ điển, thì “trộng” (nuốt
trộng) là sớm nhất, sau đó đến “trửng”, “trẩng” (nuốt trửng; nuốt trẩng) và muộn
nhất là “chửng” (nuốt chửng).
Vậy,
xét nghĩa từ nguyên, thì trộng↔trửng↔chửng
từ đâu mà ra?
Câu trả lời là “trộng” vốn từ chữ “trọng” 重 mà ra.
Chữ trọng
重 (một âm đọc khác là “trùng” trong từ
“trùng lặp”) có một nghĩa là “lớn” (nghĩa thứ 22 mà Hán ngữ đại từ điển đã giảng). “Nuốt trọng/trộng” là nuốt miếng lớn,
để nguyên không nhai. Trộng hột/trọng hạt
= hột lớn. Hiện nay người ta vẫn nói là chọn lấy cái “trọng”, tức là chọn cái/cục/miếng/hòn lớn nhất trong số những
thứ hỗn độn bị băm, cắt nhỏ, hoặc bị vỡ vụn ra. Đại Nam quấc âm tự vị có
dẫn ngữ liệu“Ăn
cơm trộng” = “Ăn cơm nguyên hột; ăn lấy một mình khỏi phải nhai. (Con thơ)”. Chữ “trộng” trong “ăn cơm trộng” đồng nghĩa với chữ “lống” trong “ăn cơm lống”
(phương ngữ Thanh Hoá), chỉ trẻ con đã ăn được cơm hột, không phải nhai nữa;
“lông lống” có nghĩa là đã ở mức “lơn
lớn”, “khá lớn” rồi (đồng nghĩa “trồng
trộng/ trộng trộng).
Trong Đại
Nam quấc âm tự vị, mục “trộng” được ghi bằng chữ trọng 重, và Huình Tịnh Paulus Của chú là “Nôm”. Tuy
nhiên, như đã nói ở trên, chữ “trộng” do “trọng” mà ra. Bởi thế, thực chất “trọng”
重 ở đây là Hán (chữ) chứ không phải Nôm. Mối
quan hệ ONG↔ÔNG (trọng ↔ trộng) ta thấy
trong rất nhiều trường hợp khác như thả
rong↔thả rông; long nhong↔lông nhông; rọng rãi↔rộng rãi; cọng trừ↔cộng trừ,…
Từ “nuốt trọng/trộng”, biến thành “nuốt trẩng”,
“nuốt trửng” rồi “nuốt chửng” (hiện vẫn còn lưu giữ trong tiếng Thanh Hoá). Mối
quan hệ ÔNG↔UNG, thì ta vẫn gặp trong phương ngữ Thanh Hoá như đì đồng↔đì đùng; đến cồng↔đến cùng. Còn mối quan hệ ỤNG↔ỦNG thì ta có chựng lại↔chững lại; sựng người↔sửng người;
vụng nước-vũng/vổng nước…
Còn mối quan hệ TR↔CH thì cũng có thể dẫn
ra rất nhiều ví dụ, như trà↔chè;
trương↔chương; trì↔chày; trực↔chực,…
Như
vậy, “nuốt trộng”, “nuốt trẩng”, “nuốt trửng” là cách nói và viết được ghi nhận
sớm nhất, sau đó mới đến “nuốt chửng”.
Hiện
nay, cách nói và viết “nuốt chửng” được xem là phổ thông, nhưng không vì thế mà
xem cách viết “nuốt trửng” là sai chính tả, vì sai chính tả và cách viết cũ/phương
ngữ/ít dùng là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau. Theo đây, “nuốt chửng” và “nuốt
trửng” phải được xếp vào trường hợp “lưỡng
khả” (cả hai cách viết đều được chấp nhận).
Hoàng
Tuấn Công/6/2025
-------
Bài
viết có sử dụng tư liệu từ hai cuốn “Việt
ngữ chánh tả tự vị” (Lê Ngọc Trụ); “Tự
điển Francais - Anamite (Trương Vĩnh Ký), do bác Phạm Ngọc Hiệp chia sẻ qua
bình luận. Trân trọng cảm ơn bác.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét