22 thg 8, 2022

LẠI CHUYỆN “DỐT ĐẶC CÁN MAI”

 

Cán mai và lưỡi mai khi tháo rời nhau.
Ảnh: HTC
       HOÀNG TUẤN CÔNG

Báo Người Lao Động (7/10/2021) đăng bài viết “Dốt đặc cán mai” của chúng tôi (bút danh Hoàng Tuấn Công [HTC]; bản dài đăng trên Tuấn Công Thư phòng). Trong bài viết này, tác giả phản biện một số cách hiểu chưa đúng về nghĩa đen của câu thành ngữ; lý giải tại sao lại ví von “Dốt đặc cán mai”, mà không phải “đặc cán thuổng” hay “đặc cán cuốc”, “đặc cán xẻng”...

Bài Lắt léo chữ nghĩa: Dốt đặc cán mai(An Chi - báo Thanh Niên - 5/12/2021) đi theo một hướng khác. Sau khi dẫn cách giải thích nghĩa đen của HTC, An Chi (AC) đặt vấn đề tìm hiểu nghĩa của chữ “đặc” trong “dốt đặc”.

AC viết:

 “Tại sao lại nói dốt đặc? Câu trả lời của chúng tôi là: “Sở dĩ người ta nói dốt đặc vì đặc cũng là dốt”.

8 thg 8, 2022

MỘT LÀNG HAI HUYỆN

 

Sông Yên
Ảnh: báo Thanh Hóa

             HOÀNG TUẤN PHỔ

Thời Hậu Lê cho đến thời Nguyễn, hệ thống hành chính chia tỉnh Thanh Hóa gồm phủ, huyện, xuống đến tổng, xã, thôn, thường gọi là làng. Bấy giờ phủ Tĩnh Gia có huyện Quảng Xương, huyện Ngọc Sơn, huyện Nông Cống. Về sau bỏ đơn vị phủ, huyện Ngọc Sơn mang tên Tĩnh Gia (nay là thị xã Nghi Sơn). Huyện Ngọc Sơn bấy giờ dân số ít, lấy thêm hai tổng lớn: Ngọc Đới, Văn Trinh. Sau này hai tổng Ngọc, Văn trả về huyện Quảng Xương cho thuận tiện địa dư. Hai huyện Tĩnh Gia (Ngọc Sơn), Quảng Xương cách nhau dòng sông Ghép. Phía trên sông Ghép theo quy luật thiên nhiên, bên lở bên bồi:

Khúc sông bên lở bên bồi,

Bên lở lở mãi, bên bồi bồi thêm.

Bên bồi là bờ Bắc thuộc huyện Quảng Xương.

TỂ TƯỚNG THỨ BA TRIỀU LÊ SƠ

             HOÀNG TUẤN PHỔ

Cây đa Lam Kinh
Ảnh: báo Thanh Hóa


     Lê Ngân người xã Đàm Đi cùng hương Lam Sơn với Lê Lợi. Xã Đàm Đi thời kỳ chiến tranh Lê – Mạc, Tây Sơn – Nguyễn bị ly tán, xóa sổ, khoảng thế kỷ 18-19 nhiều làng thuộc hương Lam Sơn xưa mới khôi phục được. Nhưng không còn thấy địa danh Đàm Đi. Có lẽ Đàm Đi tục danh làng Đầm nay thuộc xã Xuân Thiên, Thọ Xuân. Lê Ngân là một võ tướng dưới cờ khởi nghĩa Lam Sơn.

VĂN HÓA THĂNG LONG VỚI SỰ ĐÓNG GÓP CỦA THANH HÓA

             

Điện Kính Thiên 
Ảnh: ST

          HOÀNG TUẤN PHỔ

    Lý Thái tổ trước khi ban chiếu dời đô, nói với quần thần: “Trẫm nay mở xem địa đồ, Đại La thành, kinh đô cũ của Cao Biền, ở trung tâm đất nước, có hình thế hiểm yếu như rồng bò hổ phục, bốn phương sum họp, người và vật đông nhiều, thực là chỗ kinh đô quý nhất của đế vương”. Nhà vua nói “Kinh đô cũ của Cao Biền” là cách nói cho dễ hiểu. Sự thật lịch sử, thành Đại La xưa đã qua nhiều đời xây đắp, sửa sang, năm 836, Cao Biền tu bổ thêm, đặt là Đại La thành. 

7 thg 8, 2022

LAM LŨ, “LAM” VÀ “LŨ”


Lam lũ
Ảnh: ST
      HOÀNG TUẤN CÔNG

“Lam lũ” là một từ thông dụng trong tiếng Việt, thường được dùng với nghĩa là rách rưới, bẩn thỉu; vất vả cực nhọc. Ai cũng hiểu và dùng chính xác. Tuy nhiên, nếu hỏi nghĩa của từng yếu tố “lam” là gì, “lũ” là gì, thì không phải ai cũng trả lời được. Có lẽ cũng bởi vì thế mà Từ điển từ láy tiếng Việt (Viện Ngôn ngữ - Hoàng Văn Hành chủ biên) mới xếp lam lũ vào diện từ láy:

4 thg 8, 2022

VỀ MỘT SỐ CÂU TỤC NGỮ "CHƯA RÕ NGHĨA" TRONG "TỪ ĐIỂN TỤC NGỮ VIỆT" (Kỳ cuối)

                          HOÀNG TUẤN CÔNG 

Trang phục phụ nữ Hà Nội
khoảng năm 1930
 
Ảnh: hinhanhvietnam


     

       23-“Muốn giàu đi nuôi tằm; muốn nằm [?] đi kiện. Chưa rõ nghĩa”.

         Dân gian có câu Vô phúc đáo tụng đình, tụng đình rình vô phúc; Quan thấy kiện như kiến thấy mỡ; Nhất tự đáo công môn, thiên ngưu khiên bất xuất... Đã lâm vào chuyện kiện tụng, thì dù là nguyên đơn hay bị đơn đều khổ. Đâm lao phải theo lao, đêm ngày chầu chực lo hầu kiện. “Nằm” ở đây chính nghĩa là ăn chực nằm chờ. Muốn khổ sở, ăn chực nằm chờ thì hãy đi kiện, còn muốn giàu có thì hãy lo làm ăn. Lời khuyên của dân gian, không nên sa vào chuyện kiện tụng.

24-“Ông sư có ngãi; bà vãi có nghì[?] Chưa rõ nghĩa”.

Về một số câu tục ngữ "chưa rõ nghĩa" (Kỳ 4)

            

Ảnh minh hoạ: ST
                   HOÀNG TUẤN CÔNG

       Kỳ 3 

        14-“Đừng khinh cây cỏ, đừng bỏ bòng bong Chưa rõ nghĩa”.

         Trong Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam, Nhà Dược học Đỗ Tất Lợi cho biết: “Trong nhân dân dùng thòng bong sắc uống làm thông tiểu tiện, chữa đi tiểu khó khăn, đái buốt, đau. Còn dùng làm thuốc lợi sữa […] còn dùng ngoài, không kể liều lượng, giã nát đắp các vết thương vết loét ecpet loang vòng (mụn rộp loang vòng)”.

2 thg 8, 2022

Về một số câu tục ngữ "chưa rõ nghĩa" trong "Từ điển tục ngữ Việt" (kỳ 3)

 

Cấy đêm vụ mùa ở Thanh Hoá
Ảnh: báo Thanh Niên
      HOÀNG TUẤN CÔNG
    

(Tiếp kỳ 2)

Trong Từ điển tục ngữ Việt (NXB Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh - 2010) có một số câu Nguyễn Đức Dương thu thập, nhưng xếp vào diện “chưa rõ nghĩa”. Cách làm này thể hiện sự thận trọng, và cũng có cái hay là lưu ý cho độc giả và các nhà nghiên cứu về những vấn đề còn bỏ ngỏ. Sau đây chúng tôi xin đưa ra cách giải thích về những câu “chưa rõ nghĩa” này (phần gạch đầu dòng sau số mục, đặt trong ngoặc kép là nguyên văn của Từ điển tục ngữ Việt).

13 thg 7, 2022

"CHIẾN SĨ VÔ DANH" CHẲNG LẼ LẠI LÀ CHIẾN SĨ… “VÔ DANH TIỂU TỐT”?

 

Sự vô hồn của mộ chí "Liệt sĩ chưa biết tên"
Ảnh: ST

       HOÀNG TUẤN CÔNG

Báo Tuổi Trẻ (05/07/2022) có bài Phải đổi tất cả các bia mộ liệt sĩ 'vô danh' thành 'liệt sĩ chưa xác định được tên'. Theo đây, Bộ trưởng Bộ Lao động Thương binh và Xã hội Đào Ngọc Dung chỉ đạo “cần thực hiện quyết liệt việc đổi tên bia mộ”, bởi theo ông, “Không liệt sĩ nào là vô danh, những liệt sĩ đều có tên tuổi, quê quán. Vì vậy việc ghi tên bia mộ cần nghiêm túc thực hiện, thống nhất tên trên những tấm bia này là “liệt sĩ chưa xác định được thông tin”, không để “vô danh” nữa”.

3 thg 7, 2022

Về một số câu tục ngữ “chưa rõ nghĩa” trong “Từ điển tục ngữ Việt” ( Kỳ 2)

 

Bắc Kỳ - Những tù nhân bản xứ bị đóng gông
đang bắt chấy rận cho nhau - 
Bưu ảnh Dieulefils HN số 3148

         HOÀNG TUẤN CÔNG

     Trong Từ điển tục ngữ Việt (NXB Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh - 2010) có một số câu Nguyễn Đức Dương thu thập, nhưng xếp vào diện “chưa rõ nghĩa”. Cách làm này thể hiện sự thận trọng, và cũng có cái hay là lưu ý cho độc giả và các nhà nghiên cứu về những vấn đề còn bỏ ngỏ. Sau đây chúng tôi xin đưa ra cách giải thích về những câu “chưa rõ nghĩa” này (phần gạch đầu dòng sau số mục, đặt trong ngoặc kép là nguyên văn của Từ điển tục ngữ Việt):

(tiếp kỳ 1)

5-“Bắt chấy mẹ chồng thấy bồ nông dưới bể Chưa rõ nghĩa”.

Về một số câu tục ngữ “chưa rõ nghĩa” trong “Từ điển tục ngữ Việt” ( Kỳ 1)

 

Minh hoạ tục ngữ "Thành môn thất 
hoả, ương cập trì ngư".
Tranh: ST
                           HOÀNG TUẤN CÔNG    

    Thông thường, khi biên soạn từ điển thì tất cả từ ngữ thu thập sẽ được soạn giả giải thích. Tuy nhiên, trong Từ điển tục ngữ Việt (NXB Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh - 2010) có một số câu Nguyễn Đức Dương thu thập, nhưng xếp vào diện “chưa rõ nghĩa”. Cách làm này thể hiện sự thận trọng, và cũng có cái hay là lưu ý cho độc giả và các nhà nghiên cứu về những vấn đề còn bỏ ngỏ. Sau đây chúng tôi xin đưa ra cách giải thích về những câu “chưa rõ nghĩa” này (phần gạch đầu dòng sau số mục, đặt trong ngoặc kép là nguyên văn của Từ điển tục ngữ Việt)

1-“Ao cá lửa thành Chưa rõ nghĩa”.

         Thực ra đây chính là dị bản của Cháy thành vạ lây, mà chính Nguyễn Đức Dương đã thu thập và giải thích là: “Thành hễ bị cháy thì (những kẻ sống quanh đó) tất bị vạ lây. Hay dùng để than phiền về tình cảnh hay chịu vạ lây khi phải sống gần các cuộc giao tranh lớn”.

9 thg 6, 2022

“ĐẮC NGUYỆT LÂU” HAY “ĐÃI NGUYỆT LÂU”?

 

Ba chữ "Đắc nguyệt lâu" trên cổng
đền Ngọc Sơn

Ảnh: ST
      HOÀNG TUẤN CÔNG


    Đền Ngọc Sơn nằm trên đảo Ngọc, về phía Bắc của hồ Hoàn Kiếm, Hà Nội. 

Qua cầu Thê Húc là đến cổng đền hai tầng lầu, phía trên có tấm biển đề ba chữ “Đắc nguyệt lâu月樓.

Ba chữ “Đắc nguyệt lâu”, thường được người ta đối dịch là “Lầu được trăng”. Bài “Câu đối hoành phi và đề tự bằng chữ Hán ở đền Ngọc Sơn” (Tuấn Nghi, Tảo Trang – Tạp chí Hán Nôm) chú thích cho rằng “Đắc nguyệt lâu” (Lầu được trăng), chữ vốn trong thơ Lý Bạch: “Khuy nhật úy hàm sơn, thúc tửu hỉ đắc nguyệt = Ngó mặt trời e ngậm núi, giục rượu uống mừng được trăng”.

18 thg 5, 2022

VỀ HAI CHỮ "KHUYẾN QUÂN" CỦA LÊ XUÂN ĐỨC

 

"Tinh hoa thơ ca Hồ Chí Minh"
trong gói quà tặng
Ảnh: ST
    HOÀNG TUẤN CÔNG

Tinh hoa thơ ca Hồ Chí Minh (Lê Xuân Đức - NXB Chính trị Quốc gia Sự thật-2020) là một cuốn sách dày 1088 trang, khổ 19 x 27.

Sách được “Nhà nước đặt hàng”, với sự hợp sức biên tập của bốn nữ Thạc sĩ.

Năm 2020, trong bài “Đọc lướt tinh hoa thơ ca Hồ Chí Minh” tôi có viết:

“Như vậy, năm 2014, khi tôi viết 9 bài phê bình chỉ ra sai sót và đạo văn trong 2 cuốn sách “Nhật ký trong tù và lời bình”, “Đi tìm xuất xứ thơ Hồ Chí Minh”, một mặt, ông Lê Xuân Đức phản ứng và bắn tin doạ kiện tôi, mặt khác ông lại âm thầm tham khảo và sửa sai để đưa vào cuốn “Tinh hoa thơ ca Hồ Chí Minh”.

13 thg 5, 2022

TỪ ĐỒNG NGHĨA VỚI “THAM LAM”

 

Minh hoạ: St
       HOÀNG TUẤN CÔNG

Độc giả Lê Minh hỏi: “Hôm trước, chương trình Vua tiếng Việt kênh VTV3 có câu hỏi về tìm từ đồng nghĩa, gần nghĩa với từ “tham lam”. Đây là câu hỏi khó, người chơi không trả lời được. Ban giám khảo có gợi ý một số câu đồng nghĩa, gần nghĩa như: tham tàn, tham bạo, vơ vét, hám lợi. Xin ông cho biết những từ ấy có đồng nghĩa với tham lam không? “Tham” thì dễ hiểu rồi, vậy “lam” đây nghĩa là gì, nó có phải là láy của “tham” không? Cảm ơn ông!”

9 thg 5, 2022

TAO KHANG LÀ “HẠT THÓC” HAY LÀ…?

                  HOÀNG TUẤN CÔNG

Minh hoạ "Tống Hoằng truyện"
Tranh: ST


Tin nhà ngày một vắng tin,

Mặn tình cát luỹ, lạt tình tao khang.

                                     (Truyện Kiều)

Ai xui rã chút duyên kim cải,

Ai khiến rời chút ngãi tào khang...

                                                                                              (Ca dao)

“Tao khang” hay “tào khang” là gì?

Sách “Tập tục đời người” (Phan Cẩm Thượng – NXB Hội Nhà văn, 2017) giải thích:

“Trong tiếng Hán, hạt gạo là đạo (tao), vỏ trấu bọc ngoài gạo gọi là khang. Sự bao bọc này rất khăng khít, nên muốn có gạo ăn phải xay lúa giã gạo. Chữ tạo khang, Đạo khang được chỉ sự chung thuỷ của vợ chồng, nên có câu Vợ chồng là nghĩa tao khang. Ở đây ta thấy có hiện tượng người Việt dùng nguyên tiếng Trung Quốc cổ lẫn tiếng Hán Việt”.

28 thg 4, 2022

“BA HỌ” LÀ… “BA HỌ” HAY LÀ “BA ĐỜI”?

 

Nhà lá
Ảnh: Làng Việt xưa và nay
     HOÀNG TUẤN CÔNG

Trên trang “Làng Việt xưa và nay”, Trần Ngọc Đông đăng bài “Không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời”,trích lời giải thích trong sách Bách khoa thư làng Việt cổ truyền” (PGS. Bùi Xuân Đính. NXB Chính trị Quốc gia - 2021). Xin trích đoạn có liên quan “Không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời”,:

Câu tục ngữ chỉ sự không ổn định về đời sống của các giai tầng xã hội trong nông thôn Việt trước Cách mạng Tháng Tám 1945.

Khái niệm “Họ” trong câu thành ngữ đồng nghĩa với từ “Đời” (hay thế hệ); không có nghĩa là dòng họ (huyết thống, tông tộc), vì dòng họ không phải là một đơn vị kinh tế…”.

16 thg 4, 2022

“ĐẦM ĐÌA” VÀ “ĐÌA ĐẦM”


Tát đìa ăn Tết
Ảnh và chú thích báo Nhân Dân
HOÀNG TUẤN CÔNG

Từ điển từ láy tiếng Việt (Viện ngôn ngữ học – Hoàng Văn Hành chủ biên) thu thập và giải nghĩa: “ĐẦM ĐÌA tt (nước mắt mồ hôi) nhiều đến mức chảy ròng ròng. Nước mắt đầm đìa. Mồ hôi vã ra đầm đìa như tắm. “Hớ hênh nghiêng chút bên kia, Giọt đau thương sẽ đầm đìa mắt ai” (Nguyễn Duy).

1 thg 4, 2022

GIẤY THÔNG HÀNH CỦA CÁO


Bài tập đọc trong Tiếng Việt 1
                HOÀNG TUẤN CÔNG
     

      TCTP: Sách Tiếng Việt 1 (bộ sách Cánh Diều) sửa truyện ngụ ngôn Quạ và cáo thành Quạ và chó (trang 99):

Quạ đỗ ở mỏm đá, mỏ ngậm khổ mỡ to. Chó nghĩ kế cuỗm khổ mỡ. Nó giả vờ:

- A, ca sĩ quạ! Quạ mà ca thì mê li lắm.

Quạ há to mỏ:

- Quà… quà… Thế là… “bộp”, khổ mỡ của quạ đã nằm kề mõm chó. Chó tợp mỡ tha đi. (Theo Truyện ngụ ngôn Ê-dốp  – Thành Vân kể)”.

17 thg 2, 2022

CHIM CUỐC KHÔNG CÒN KÊU NỮA...

Đêm trong núi lạnh...
HTC và Thái Hạo

                     THÁI HẠO

       Đêm trong núi lạnh, ngồi nói chuyện với anh Hoàng Tuấn Công. Về những cánh rừng đã mất. Anh Công hỏi mình, ở đây giờ còn (chim) cuốc không. Mình nói còn, thi thoảng vẫn thấy chúng lủi nhanh qua những bờ bụi. Có nghe thấy tiếng chúng kêu không? Không.

- Ừ, cuốc giờ không còn kêu nữa.

Bỗng giật mình, đúng rồi, đã bao lâu mình không nghe tiếng cuốc dù vẫn thấy chúng đây đó nơi chân đồi đồng bãi… Chúng lủi đi và sống trong im lặng. Rừng đã hết, con người có mặt khắp nơi cùng súng và bẫy rập.

13 thg 2, 2022

RẮC RỐI “NHÂN TÌNH” VÀ “TÌNH NHÂN”

   HOÀNG TUẤN CÔNG


       Nhân tình
tình nhân là hai từ Việt gốc Hán có hai nghĩa khác nhau. Nhân tình人情 = tình người; tình cảm giữa người với người; lòng dân, tình hình dân chúng; còn tình nhân 情人 = người tình; người yêu.

Tuy nhiên, thực tế sử dụng hai từ này trong tiếng Việt lại khá rắc rối. Nhiều người dùng đúng, nhưng cũng không ít người nhầm lẫn, đánh đồng, hoặc không phân biệt rõ ràng giữa hai từ “nhân tình” và “tình nhân”.