4 thg 11, 2013

LÀNG CỔ QUẢNG THI


                                                   Hoàng Tuấn Phổ
                                   Một khúc Lương Giang
                                                                                Ảnh: Internet

 Sông Chu tên xưa là Lương Giang do bốn ngọn nguồn đổ vào. Một dòng sông đẹp, nước trong xanh, uốn mình lượn giữa đôi bờ bạt ngàn dâu, mía, ngô, khoai.

24 thg 10, 2013

HOÀNG TUẤN PHỔ
Thanh Hóa nhiều núi đá vôi, là môi trường thích hợp đời sống loài khỉ. Những quần sơn thâm nghiêm, cao vút như Kim Sơn (huyện Vĩnh Lộc), An Hoạch (huyện Đông Sơn), Hoàng Nghiêu (huyện Nông Cống),... trước kia đều là thiên đường của giống khỉ lông vàng đuôi cộc.

21 thg 10, 2013

ĐÁNH CHUỘT

HOÀNG TUẤN PHỔ
Hồi tôi còn nhỏ, tạng người yếu, ăn cơm hay bị nghẹn, nấc. Mỗi lần bị nghẹn, nấc, người lớn lại chỉ tay lên nóc nhà, bảo: “Tề tề (kìa kìa) có con chuột đang chạy!”, tôi tưởng thật ngửa cổ nhìn lên nóc nhà, buột miệng hỏi: “Mô mô (đâu đâu)?” thế là khỏi nghẹn, hết nấc. Đúng là trên nóc nhà (không riêng nhà tôi) có giống chuột nhỏ tên thường gọi chuột nhà, chuyên cư trú trong mái lá. Chúng sống ở đó rất an toàn, mèo thấy cũng chẳng làm gì, tha hồ xây tổ ấm, sinh con đẻ cháu. Lợi dụng đêm tối hoặc nhân lúc ban ngày vắng

VĂN HÓA LÀNG-TÂM HỒN VIỆT


    Hoàng Tuấn Phổ

Ảnh minh họa: Internet
Đất nước ta lập làng rất sớm, từ hàng nghìn năm trước. Di tích khảo cổ học núi Sỏi gần núi Nưa (Nông Cống – Triệu Sơn), cho biết khoảng thế kỷ II sau Công nguyên, một làng cổ cư trú trên toàn bộ núi Sỏi, rộng đến 1 vạn m2.

THỔ ÂM THỔ NGỮ THANH HÓA


                                                    HOÀNG TUẤN PHỔ

Thanh Hóa là một vùng văn hóa, trong đó ngôn ngữ người Việt, thành phần dân tộc chủ thể rất giàu sắc thái địa phương, nhưng chưa có một công trình nghiên cứu khoa học đầy đủ và sâu sắc.
 
Cây trôi ở làng Văn Đoài-Quảng Hòa-Quảng Xương-Thanh Hóa
                     Ảnh:Tuấn Công

 Sách “Địa chí văn hóa xã hội Thanh Hóa” cũng chỉ dành cho “lời ăn tiếng nói” người xứ Thanh số trang ít ỏi với nội dung sơ sài. Các sách Địa chí huyện Hà Trung, Địa chí huyện Thọ Xuân, chú ý đề cập vấn đề “thổ âm - thổ ngữ”, nêu rõ sắc thái địa phương, tuy nhiên chỉ giới hạn phạm vi trong huyện.

17 thg 10, 2013

GS NGUYỄN LÂN HIỂU NHƯ THẾ NÀO VỀ NÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN ?

                        Hoàng Tuấn Công
Trong sách “Từ điển từ và ngữ Việt Nam” của GS Nguyễn Lân, nhiều từ ngữ, khái niệm liên quan đến lĩnh vực nông nghiệp nông thôn đã được thu nhận và giải thích.

VỀ CHỮ “HỒNG” TRONG BÀI THƠ “MỘ” CỦA HỒ CHÍ MINH

                        Hoàng Tuấn Công
Bên bếp lửa hồng (nguồn Báo Hòa Bình)
Trên tạp chí Ngôn ngữ học-Viện ngôn ngữ học Việt Nam, số 6-2007 có bài “Thiết kế thử nghiệm bài học ngữ văn” đối với bài thơ “Mộ (Trích ngục trung nhật ký, Hồ Chí Minh, Ngữ văn 12, tập 1)” của Th.S Vũ Thị Sao Chi (*) Bài viết  thể hiện sự đầu tư công phu khi đưa ra cách giảng dạy bài thơ “Mộ” (Chiều tối). 

Đặc biệt đã có sự so sánh khá kỹ giữa bản phiên âm, dịch nghĩa và dịch thơ để hướng dẫn giáo viên phân tích, cảm thụ cái hay, cái đẹp của bải thơ. 

Tuy nhiên, khi phân tích hai câu thơ cuối:

Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,
Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng.
Nam Trân dịch:
 Cô em xóm núi xay ngô tối,
Xay hết lò than đã rực hồng.

ThS. V.T.S.C chỉ căn cứ vào chữ “hồng” qua bản dịch thơ của Nam Trân mà không tìm hiểu chữ “hồng” trong nguyên tác chữ Hán nên dẫn đến sự nhầm lẫn. Cụ thể V.T.S.C luôn bám vào hai từ “rực hồng” của người dịch để hướng dẫn giáo viên phân tích, cảm thụ bài thơ.
 Khi đọc nguyên tác chữ Hán của bài thơ “Mộ” chúng ta sẽ thấy rằng, chữ “hồng” () trong câu cuối bài thơ “Mộ” có bộ hoả(1). Chữ “hồng” có bộ hoả,  tác giả bài thơ dùng với nghĩa, cháy lên, nhóm lửa lên chứ không phải chữ “hồng” có bộ mịch () là mầu hồng- sắc mầu của ngọn lửa “rực hồng”. Có nghĩa, chữ “hồng” () trong câu thơ là một động từ (cháy lên, đốt lên, nhóm lửa lên) chứ không phải chữ “hồng” (tính từ (chỉ màu sắc lửa hồng).

Đây không phải là sự ngẫu nhiên. Ta có thể so sánh cách dùng một số chữ “hồng”khác có trong tập thơ Ngục trung nhật ký. Để chỉ màu hồng của mặt trời, của ánh sáng xua tan bóng đêm trong bài Tảo giải (Giải đi sớm) tác giả đã dùng chữ “hồng” có bộ mịch (). Chữ "hồng" có bộ mịch () với nghĩa mầu sắc (của ánh sáng) xua tan bóng đêm-hoàn toàn khác với chữ “hồng” có bộ hoả () nghĩa là cháy lên, đốt lên trong bài “Mộ”:

“Đông phương bạch sắc dĩ thành hồng
U ám tàn dư tảo nhất không”
Dịch nghĩa:
Màu trắng ở phương đông đã thành màu hồng
Bóng đêm rơi rớt đã bị quét sạch.(2)

Hoặc chữ “hồng” (), cũng chỉ mầu sắc như vậy trong bài “Triêu cảnh” (Cảnh buổi sớm):

Thái dương mỗi tảo tòng sơn thượng
Chiếu đắc toàn sơn xứ xứ hồng
Dịch nghĩa:
Mỗi buổi sớm, mặt trời từ đỉnh núi mọc lên
Núi non, xứ xứ đều rực ánh hồng (3)

Trở lại bài thơ “Mộ”. Do không hiểu đúng nghĩa nguyên tác chữ “hồng” ()  lại bám vào chữ “rực hồng” của Nam Trân dịch nên người thiết kế thử nghiệm bài học ngữ văn cho giáo viên đã sa vào suy diễn, gán ghép,  “tán” ý thơ mà không ít nhà phê bình đã từng lầm tưởng: 
“Bài thơ kết thúc bằng hình ảnh “lò than rực hồng”. Đây là tín hiệu đa tầng ý nghĩa”;...  “Hình ảnh lò than rực hồng còn là một nét vẽ tương phản trên nền bóng đêm đen, nó cân lại bức tranh của núi rừng chiều tối, làm sáng lên và ấm lại khung cảnh hoang lạnh tối tăm. Nghệ thuật thơ Đường gọi những hình ảnh như thế là “thi nhãn” (mắt thơ). Ánh sáng lung linh, sức sống ấm áp, niềm tin yêu cuộc đời đã toả ra từ ngọn lửa-con mắt thơ rực rỡ ấy. Từ sức bật của hình tượng thơ (rực hồng) phả ra một nguồn ánh sáng, một nguồn nhiệt lượng mạnh mẽ để tiếp cho con người hơi ấm...”...  “Hình ảnh lò than rực hồng cuối bài thơ chính là một biểu hiện của nhãn quan nghệ thuật ấy.”v.v...

Từ sự nhầm lẫn đó, Vũ Thị Sao Chi đã chê Nam Trân khi dịch câu: “Cô em xóm núi xay ngô tối”: 
“Bản dịch đã thêm vào chữ tối làm mất đi dấu hiệu nghệ thuật độc đáo (trở nên lộ liễu) vì nguyên bản không nói tối mà vẫn gợi được tối, nhờ ánh sáng của lò than rực hồng-nghệ thuật lấy sáng để gợi tối.” và “Bài thơ kết thúc bằng hình ảnh lò than rực hồng. Đây là một tín hiệu nghệ thuật đa tầng ý nghĩa. Trước hết hình tượng thơ gợi bước đi của thời gian. Thời gian vận động từ chiều sang tối hẳn. Nguyên bản câu cuối không có chữ tối mà cả bóng tối bịt bùng của núi rừng đã được mở ra khi “lò than rực hồng” của cô gái xóm núi bừng sáng (khi mặt trời tắt, rừng núi mịt mùng thì tự nhiên ta có thể nhìn rõ nơi có ánh sáng) Lấy ánh sáng gợi tối chính là một thủ pháp độc đáo của ý thơ này.” (HTC nhấn mạnh)

Tất cả những bóng đêm Vũ Thị Sao Chi tưởng tượng ra như: “nét vẽ tương phản trên nền bóng đêm đen”, “hoang lạnh tối tăm”, “bóng tối bịt bùng của rừng núi đã được mở ra” đều thể hiện sự lạc lối bắt đầu từ chữ “hồng”. Vũ Thị Sao Chi quên rằng, bài thơ tả cảnh chiều tà, chiều muộn, gần tối chứ không phải trời đã tối. Tính thời gian (hay giới hạn thời gian) tác giả bài thơ đã khẳng định ở đầu đề bài thơ là chữ “Mộ” () chứ không phải chữ “Dạ” ().

Nên hiểu rằng, với các dân tộc miền núi cao, bắp ngô là lương thực chính hàng ngày. Ngô làm cơm, làm bánh được xay dùng từng bữa. Xay ngô chiều để chuẩn bị cho bữa tối. (Giống như tiếng chày giã gạo vang lên rộn rã rừng chiều của cư dân vùng thung lũng lúa nước chuẩn bị bữa cơm tối). Do đó, hai câu:

Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,
Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng.
Dịch nghĩa:
Thiếu nữ xóm núi xay ngô,
Ngô xay xong, lò than đã được nhóm/đốt lên.

Công việc đốt lên, nhóm lò lên ở đây được hiểu là chuẩn bị cho bữa cơm tối (lô = lò than, dĩ = đã, được; hồng = đốt lên, nhóm lên ). Bởi vậy khi dịch câu “Ngô xay xong, lò than đã được đốt (cháy rực) lên” thành “Xay hết lò than đã rực hồng” ,Nam Trâm đã có ý thêm chữ “tối” vào câu thơ trước: “Cô em xóm núi xay ngô tối”. Có nghĩa, xay ngô chuẩn bị cho bữa cơm tối, không phải xay ngô khi trời (đã) tối; và hai từ “rực hồng” Nam Trân dịch ở đây, nghĩa đen là bếp lửa nấu cơm chiều, không phải ngọn lửa cháy trong bóng tối, “Thời gian vận động từ chiều sang tối hẳn” như sự suy diễn của V.T.S.C.

Như trên đã nói, chữ “hồng” () trong bài thơ này có nghĩa là đốt lên, nhóm lửa lên, sưởi ấm, không phải chữ “hồng” () là ánh lửa sáng mầu hồng. Vậy, tại sao Hồ Chí Minh lại dùng chữ “hồng” với nghĩa là nhóm lửa lên, mà không dùng chữ “hồng” với nghĩa đơn thuần là ánh lửa sáng mầu hồng trong đêm tối? Chúng ta đều biết, trong khoảng thời gian bị giam cầm, Hồ Chí Minh liên tục bị giải đi hết nhà lao này đến nhà lao khác:

Liễu Châu, Quế Lâm, lại Liễu Châu
Đá qua đá lại, bóng chuyền nhau.
Vô đề(4))

Bài thơ “Mộ” là một trong những bài Hồ Chí Minh làm khi đang trên đường bị giải. Đó là khung cảnh buổi chiều, thời khắc mọi vật dường như đều mệt mỏi sau một ngày dài. Cánh chim mỏi bay về rừng tìm chốn ngủ, chòm mây đơn chiếc cũng trôi chậm lại. Tất cả dường như đều trở về ngôi nhà của riêng mình để nghỉ ngơi. Trong khi người tù vẫn “cất bước trên đường thẳm”(5) và không biết “Giải tới bao giờ, giải tới đâu”(6). Giữa rừng chiều vắng, đói rét, mỏi mệt, ai chẳng mơ về một mái ấm bình dị, nơi có bếp lửa ấm áp và bữa cơm tối đang chuẩn bị. Buổi chiều chính là thời khắc dễ khiến những bước chân tha hương nhớ, nghĩ, mơ về người thân và mái ấm gia đình. Thơ Hồ Chí Minh, cảnh và tình bao giờ cũng rất cụ thể, giản dị và thắm đượm tình người cùng hơi thở cuộc sống. Lò than được đốt lên, nhóm lên sưởi ấm không gian khi một ngày sắp tàn như khẳng định ngọn lửa trong lòng người tù không bao giờ tắt. Nó tiếp tục được nhen lên, cháy lên sau một ngày tưởng chừng trí lực đã cùng kiệt. Câu thơ như thắp lên ngọn lửa ý chí - ngọn lửa sẽ cháy lên để tiếp sức cho một cuộc hành trình gian khổ ngày mai đang đợi phía trước...


Ngoài ra, có nhiều điểm, ThS V.T.S.C cần cẩn trọng hơn khi thiết kế bài giảng cho giáo viên. Ví như câu: “Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ” (Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ). Có lẽ ThS không đọc kỹ nguyên tác nên lầm chữ “túc” (宿với nghĩa tá túc, ngủ lại trong câu thơ thành “túc” () là chân, và dịch nghĩa cho học sinh là: “Chim mỏi bay về rừng tìm chốn dừng chân” (Hoàng Tuấn Công nhấn mạnh). Chim bay bằng cánh nên không thể dùng từ dừng chân. Hơn nữa, chim về rừng tìm chốn (nơi chỗ) ngủ - (“tầm túc thụ”), không phải“dừng chân” (để nghỉ). Nguyên tác cũng không dùng chữ “túc” (宿)với nghĩa này.

Một điều nữa. Hai chữ “cô vân” trong câu “Cô vân mạn mạn độ thiên không” Nam Trân dịch là “chòm mây”. ThS V.T.S.C cho rằng: Bỏ sót một tín hiệu nghệ thuật quan trọng về hình ảnh đám mây, đó là chữ  (một mình) gợi sự lẻ loi, đơn chiếc, trống vắng, hoang lạnh”. Sự thực Nam Trân không kém cỏi tới mức vô tình “bỏ sót tín hiệu nghệ thuật quan trọng” như VTSC nói. Phải thấy rằng, khi dịch thơ, khó chọn từ nào hay hơn “chòm mây” để diễn tả hình ảnh “cô vân”. Thực tế đã chứng minh. Dù chê Nam Trân, nhưng chính VTSC cũng không đưa ra được cách dịch nào hay hơn để không “bỏ sót tín hiệu nghệ thuật quan trọng” của hai từ “cô vân” ấy. Ngược lại, khi đưa ra bản dịch nghĩa của câu thơ này, thậm chí là từ dùng trong bài viết (mặc dù không bị câu thúc về số lượng từ hay niêm luật), VTSC vẫn phải dùng lại hai chữ “chòm mây”  của Nam Trân để diễn tả hai từ “cô vân” !(Một chòm mây chầm chậm trôi giữa không trung). Cũng cần nói thêm, hình ảnh “cô vân”(một đám mây, cụm mây, chòm mây), “mạn mạn” (từ láy Hán Việt: bay, trôi chầm chậm) là những hình ảnh chỉ có được trong một ngày đẹp nắng, hoặc buổi chiều tà đẹp trời. Không thể là cảnh ngày đông bầu trời xám xịt u ám, “hoang lạnh” (chữ của Vũ Thị Sao Chi-HTC). Và theo tôi, “Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ, Chòm mây chầm chậm bay giữa từng không”là những hình ảnh đẹp, gợi vẻ êm ả, thanh bình, trìu mến của bầu trời cảnh vật vùng sơn cước lúc chiều tà, không hẳn “gợi sự lẻ loi, đơn chiếc, trống vắng, hoang lạnh” như cách hiểu của ThS. Bởi điều này không phù hợp với cái nhìn lạc quan trong mọi hoàn cảnh thường thấy trong thơ Hồ Chí Minh, và cụ thể đối với chính bài “Mộ”.

Tóm lại, chữ “hồng” ()  trong bài thơ “Mộ” của Hồ Chí Minh nghĩa là đốt lên, nhóm lên, sưởi ấm, không phải chữ “hồng” () với nghĩa là mầu hồng. Có lẽ, do ngay từ bản dịch nghĩa, Nam Trân đã dịch thoát chữ “hồng” (Ngô xay xong lò than đã đỏ) nên tạo ra sự hiểu nhầm cho không ít người, trong đó có ThS. Vũ Thị Sao Chi. Nhưng khi dịch thơ Nam Trân lại thêm từ “rực” vào : “Xay hết lò than đã rực hồng” (lò than cháy rừng rực). Cách dịch của Nam Trân là chấp nhận được và phải thừa nhận rằng đây là bản dịch hay nhất từ trước tới nay. 

 Dịch nói chung và dịch thơ nói riêng, có trường hợp làm cho bản gốc trở nên hay hơn. Cũng có khi không thể chuyển tải hết ý của nguyên tác. Đó là chuyện thường thấy và phải biết chấp nhận. Hơn nữa khi đã đi sâu vào phân tích, cảm thụ thơ dịch (đặc biệt là thơ chữ Hán) nên tìm hiểu, so sánh với phần nguyên tác. Không nên tìm hiểu qua phần phiên âm, dịch nghĩa, dịch thơ rồi vội nhận xét, phê bình, đặc biệt đối với những bài truyền đạt cho giáo viên, học sinh./.

Thanh Hoá 20/08/2007


Chú thích:
(1)-Tất cả các sách xuất bản có in phần nguyên tác chữ Hán bài thơ “Mộ” của Hồ Chí Minh đều thấy chữ  “hồng”( có bộ hoả này, kể cả bút tích của bài thơ.
(2) (3) (4) (5) (6) –Những câu thơ này đều trích trong “Ngục trung nhật ký-Hồ Chí Minh.

(*) (Hiện là Tiến sĩ - Phó tổng biên tậpTạp chí ngôn ngữ học-Viện ngôn ngữ học Việt Nam).





10 thg 10, 2013

SAI LẦM MANG TÍNH HỆ THỐNG TRONG

TỪ ĐIỂN THÀNH NGỮ VÀ TỤC NGỮ VIỆT NAM”
của GS Nguyễn Lân
                                          HOÀNG TUẤN CÔNG
Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam - tác giả GS Nguyễn Lân - In lần đầu 1989, tái bản nhiều lần. 
Bản sử dụng sau đây của Nhà xuất bản Thời Đại 2012 .

Cuốn “Từ điển Thành ngữ và tục ngữ Việt Nam của GS Nguyễn Lân gây cho tôi nhiều thú vị và ngạc nhiên lớn. 

3 thg 10, 2013

Thăm nhà Trạng nguyên Trịnh Huệ

 xem biển đá “Trạng Nguyên từ”
Hoàng Tuấn Công
Núi Voi ở xã Bất Quần
Tôi còn nhớ hồi nhỏ, trên con đường 1A từ thị xã Thanh Hoá về quê Quảng Xương, cha tôi chỉ tay về phía tây, một dải um tùm làng mạc: “Kia là làng Voi, nhà ông Trạng nguyên Trịnh Huệ ở đó. Ông mất từ lâu rồi nhưng nhà còn tấm biển Trạng Nguyên Từ”. 

30 thg 9, 2013

Từ điển từ và ngữ Việt Nam

Của GS NGUYỄN LÂN

MỤC CHỮ CÁI NÀO CŨNG SAI SÓT
(Tiếp theo, mục chữ cái B)
B
Ba mươi sáu chước (dịch từ chữ Hán: tam thập lục kế) Ý nói trốn đi là hợp.
Ba mươi sáu chước đúng là dịch từ “tam thập lục kế”. Tuy nhiên nó đâu có nghĩa “trốn đi là hợp” nếu không bao gồm cả vế thứ hai “chước chuồn là hơn” ? (Giống như câu nguyên văn chữ Hán phiên âm: Tam thập lục kế, tẩu vi thượng sách)

Cuốn Từ điển không thể tin cậy của GS Nguyễn Lân

Bạch hổ. Con cọp trắng vẽ trong các tranh tôn giáo.
Giải thích như vậy là phiến diện. Bởi cọp trắng không chỉ xuất hiện trong tranh thờ mà nó còn là con vật có thật, sống hoang dã. Theo Bách khoa toàn thư mở Hổ trắng hay Bạch hổ  hổ với một gen lặn tạo ra những màu sắc nhạt. Một đặc tính di truyền làm cho các sọc của hổ rất nhạt; trắng”. 

27 thg 9, 2013

"TỪ ĐIỂN TỪ VÀ NGỮ VIỆT NAM"


của GS Nguyễn Lân 
 MỤC CHỮ CÁI NÀO CŨNG CÓ SAI SÓT

(Kỳ I Mục chữ cái A-Ă-Â)

HOÀNG TUẤN CÔNG

Cuốn Từ điển có nhiều sai lầm
của GS Nguyễn Lân
Từ điển từ và ngữ Việt Nam - tác giả GS Nguyễn Lân. Xuất bản lần đầu năm 2000, tái bản lần 1 năm 2006, 2.119 trang; tập hợp 51.700 từ và ngữ - Nhà xuất bản Tổng hợp TP Hồ Chí Minh.
Lời Nxb Tổng hợp TP Hồ Chí Minh (dịp tái bản lần thứ nhất) cho ta biết: “Sau khi cuốn sách ra mắt bạn đọc, Tác giả và Nhà xuất bản đã nhận được nhiều ý kiến hoan nghênh công trình này, đồng thời tác giả cũng đã kịp thời sửa chữa, bổ sung những chỗ còn sai sót (*) của lần xuất bản đầu tiên trước khi qua đời 7/8/2003”“… công trình này của GS Nguyễn Lân dù có cố gắng đến đâu vẫn không thể tránh khỏi sai sót, khiếm khuyết …và rất mong nhận được sự ủng hộ và chỉ giáo của quý bạn đọc gần xa”. Trong “Đôi lời tâm

20 thg 9, 2013

ĐỪNG HIỂU SAI LỜI CỔ NHÂN

       HOÀNG TUẤN CÔNG

Trần Tử Ngang
(661-701)
Trên tạp chí Xứ Thanh số 35 (6-1998) có bài "Tiểu thuyết Thanh Hoá" của nhà văn Nguyễn Ngọc Liễn. Cũng trên tạp chí này số 36 (7-1998) lại đăng bài "Trao đổi cùng nhà văn Nguyễn Ngọc Liễn (Nhân đọc bài "Tiểu thuyết Thanh Hoá" - xứ Thanh số 36 (6-1998) của nhà văn Nguyễn Văn Đệ. Ở cả hai bài "trao" và "đổi" nói trên các tác giả đã viện dẫn khá nhiều văn, thơ, nhiều câu nói có tính chất "kinh điển" của người xưa để củng cố thêm ý kiến của mình. 

12 thg 9, 2013

ĐÁNH CHIM VÀNG ANH

Chim vàng anh trống hồng

Hoàng Tuấn Phổ
Đảo Hòn Mê nhiều vô kể các loài chim : “Chim Hòn Mê, kê chợ Quán”. Giống chim vàng anh không chịu được gió mùa đông bắc. Hễ thời tiết bắt đầu se se lạnh, chúng bay từ Hòn Mê vào đất liền để lên rừng tránh rét. Chúng bay lẻ từng con hoặc từng đôi, từng đàn.

TỪ HÁN VIỆT, TỪ THUẦN VIỆT CÓ THỂ VÀ KHÔNG THỂ

                 HOÀNG TUẤN CÔNG
Ông Đồ và học trò xưa
Trên báo Văn Nghệ (Hội nhà văn Việt Nam) số 22 ngày 31-5-2008, mục “Nói chuyện chữ nghĩa” có bài “Thay từ Hán-Việt bằng từ thuần Việt” của Phan Điển Ánh. Tác giả đưa ra một số  trường hợp cho rằng không thể thay thế và có thể thay thế từ Hán-Việt bằng từ thuần Việt. Xin có đôi lời trao đổi:

11 thg 9, 2013

BẪY CHIM CUỐC


      
Cuốc ngực trắng
Nguồn: PhongVu.Blog
Hoàng Tuấn Phổ

Chim cuốc(1) còn gọi chim quắc. Cuốc hay quắc đều mô phỏng theo tiếng kêu của loài chim mà thành tên(2).  Người nông dân xưa đa số thất học, không hề biết sự tích vua Thục đế bên Tàu, chết vì mất nước, hóa thành chim Quốc, ngày đêm thương nhớ nước phát ra tiếng kêu “quốc quốc” nghĩa là “nước nước”! 

ĐÁNH BẪY CÒ BỢ


                      Hoàng Tuấn Phổ
Cò bợ
                                 Ảnh: Wikipedia
Nếu đứng cạnh bên nhau, cò bợ với cò trắng khác nào cú với tiên. Cò trắng toàn màu trắng muốt, một hình ảnh đẹp tuyệt của đồng quê, trong khi cò bợ với bộ xống áo lem nhem những nét vẽ vụng về của tạo hóa. Nhưng thịt cò bợ ngon hơn cò trắng. Vì thế ở nông thôn có nghề đánh bẫy cò bợ.
Tại những nơi cư trú của cò trắng, ít thấy cò bợ ở chen lẫn. Có chăng, dăm ba con cò bợ ngủ trọ trong thời gian lang thang phiêu bạt kiếm sống.

XÔI NẾP HÀ TRUNG

                                Hoàng Tuấn Phổ

Hoàng đế Duy Tân (1900-1915) là ông vua yêu nước. Mặc dù bị Pháp theo dõi rất chặt, ông vẫn bí mật liên lạc với hai chí sĩ Trần Cao Vân, Thái Phiên, tổ chức một cuộc khởi nghĩa lật đổ ách đô hộ. Việc lớn thất bại, vua Duy Tân bị  bắt cùng các chiến sĩ ái quốc. Triều đình Huế vâng lệnh chính quyền thực dân xét xử. Dụng ý Hồ Đắc Trung (người Thừa Thiên) muốn gỡ tội cho vua Duy Tân, làm án trình lên, trong đó có câu: “Hà Trung mạch phạn, Ngự lĩnh kê thang, thừa dư chỉ thử phong trần, giai thử bối chi vi nghiệt dã”. Nghĩa là: xôi nếp Hà Trung, cháo gà núi Ngự, nhà vua chưa đủ sung sướng hay sao mà còn phải dấn thân vào chốn phong trần, chẳng qua do bọn kia gây ra cả!

          Kết cục, món xôi nếp Hà Trung - đất thang mộc ấp của nhà Nguyễn ở Thanh Hóa,  và cháo gà núi Ngự (Huế) không cứu được vua Duy Tân thoát khỏi tù đày, nhưng riêng xôi nếp Hà Trung đã nổi danh, càng lừng tiếng thơm.

10 thg 9, 2013

Ai làm hỏng di sản tục ngữ, Hay là những sai lầm của Nhà ngữ học Nguyễn Đức Dương trong Từ điển tục ngữ Việt

Hoàng Tuấn Công

(Xin lỗi độc giả, bài viết tạm gỡ xuống để nâng cấp. Mong độc giả thông cảm)






Trong bài “Giới 8X, 9X với di sản tục ngữ” trên báo Lao động cuối tuần (số 10-8/3/2013) Nhà ngữ học, TS Nguyễn Đức Dương viết: “Không ít ý kiến cho rằng giới trẻ ở độ tuổi 8X, 9X ngày nay đang quá thờ ơ với tục ngữ [TN]. Một cô giáo dạy văn ở THCS tôi quen đã không chia sẻ nhận định ấy, mà thậm chí còn gay gắt bác lại. Theo cô, các em chỉ thờ ơ khi chưa thấu hiểu nội dung thôi, chứ một khi đã nắm được rồi, các em còn tỏ ra thích thú là đằng khác”.

6 thg 9, 2013

VỀ ĐẠO TU TIÊN Ở THANH HOÁ Nhân đọc "Khảo sát văn hoá làng xứ Thanh"(1)


                                                                                                               Hoàng Tuấn Công

Phía trước động Hồ Công
Viết về đạo tu tiên ở Thanh Hoá, sách "Khảo sát văn hoá làng xứ Thanh" cho rằng: "Thanh Hoá hiện nay còn một số dấu vết đạo tu tiên khá rõ nét trong các làng quê. Các dấu vết còn lại, chứng tỏ đạo tu tiên đã một thời hoạt động rất tích cực ở xứ Thanh và có những tác động rõ rệt
tới văn hoá làng. Để chứng minh, tác giả cuốn sách căn cứ vào các địa danh "Quán" làm cứ liệu quan trọng: "Trước hết ở khắp các làng Thanh Hoá còn nhiều địa danh mang
tên quán: Quán Chua, Quán Trổ, Quán Giắt, Quán Cháo, Quán Nam... Cũng có người

"THIÊN TÀI NGUYỄN DU" HAY TẬN CÙNG CỦA SỰ DUNG TỤC ?



                             Hoàng Tuấn Công

Minh họa đóa trà mi của PTHT, trong đó có
một cánh hoa biểu tượng cho "âm hộ" nàng Kiều.
Vụ KS Đỗ Minh Xuân sửa Truyện Kiều gây phẫn nộ cho nhiều người. Tuy nhiên theo tôi, dù ông Xuân sửa 1 ngàn hay đến 10 ngàn từ thì “Truyện Kiều” nguyên tác của Nguyễn Du vẫn còn đó. Còn bản “Kiều” mà ông ĐMX “độ lại”, lúc “trà dư tửu hậu” cùng đem pha trò cũng vui đáo để…Thế nhưng, với những người mang danh Nhà nghiên cứu “Truyện Kiều” mà lại công bố trên Tạp chí chuyên ngành những phát hiện kiểu như “Trà mi thường được sử dụng trong văn thơ để tỉ dụ người con gái đẹp, nhưng để chỉ âm hộ của người phụ nữ thì ít ai như Nguyễn Du”thì quả là đáng sợ…

Trên tạp chí “Ngôn ngữ”-Viện ngôn ngữ học số 11-2007 (hiện đăng trên ngonngu.net và se.ctu.edu.vn) có bài “Những liên tưởng ngữ nghĩa của từ hoa trong Truyện Kiều-Nguyễn Du” của Phan Thị Huyền Trang. Bài viết đã táo bạo mở ra hướng tiếp cận, khám phá cái mới trong  vườn hoa ngôn ngữ của Truyện Kiều-mảnh vườn mà nhiều nhà “Kiều học”, nhiều “tín đồ” của ngôi đền thơ “Đoạn trường tân thanh” đã cày xới, chăm sóc rất kỹ ngót mấy trăm năm qua.

Theo Phan Thị Huyền Trang thì “dưới cách tiếp cận ngôn ngữ-văn hoá, bài viết này sẽ đi sâu phân tích, lý giải sự lan toả ý nghĩa của từ hoa từ tâm ra ngoại vi, cũng như sợi dây gắn kết về ngữ nghĩa từ ngoại vi hướng về tâm”.

5 thg 9, 2013

“THÀNH NGỮ CÁCH NGÔN GỐC HÁN”- CUỐN SÁCH DÙNG TRONG NHÀ TRƯỜNG CÓ NHIỀU SAI SÓT

Hoàng Tuấn Công

Trong một nhà sách tự chọn ở Thành phố Thanh Hoá, tôi tìm thấy cuốn “Thành ngữ cách ngôn gốc Hán” của Nguyễn Văn Bảo-Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội-1999. Sách tập hợp 725 câu thành ngữ cách ngôn thường dùng, với nhiều tên tuổi, học vị đáng nể xuất hiện trong phần giới thiệu, hiệu đính. Tuy nhiên, khi về nhà, có thời gian xem lại, tôi ngạc nhiên bởi cuốn sách có quá nhiều sai sót, non kém. Việc giải thích nhiều thành ngữ chứng tỏ tác giả chỉ hiểu lờ mờ, nên dịch sai, dùng sai...Thậm chí tôi có cảm tưởng chính tác giả cũng không hiểu thành ngữ nói gì nhưng vẫn giải thích bừa. Xin liệt kê sự sai sót làm mấy loại: