27 thg 8, 2019

CHẠY TRỜI KHÔNG KHỎI NẮNG (Kỳ 21)

Cây trôi ở đầu làng Văn Đoài
Ảnh: HTC

HOÀNG TUẤN PHỔ


Sáng sớm hôm sau, đúng 6 giờ, 3 hồi còi rúc vang rền, tôi giật mình thức giấc, ngồi nhổm dậy. Đầu tóc quần áo tôi ướt đầm đìa, mùi khai thối nồng nặc đến phát lộn mửa! Nhìn vào nồi vệ sinh thấy nước tiểu đầy phè, phân nổi lềnh phềnh bắt đầu tràn ra ngoài!
Một hồi còi dài rúc lên…Ban trực điểm danh từng tên một. May quá không thiếu ai. Nếu thiếu người, thứ nhất trưởng buồng, thứ hai tên đứng gác, thứ ba kẻ nằm bên cạnh đều phải chịu trách nhiệm.

17 thg 8, 2019

NGHĨA CỦA “XẨU” TRONG TỪ “XƯƠNG XẨU”

Phở gánh Hà Nội
Ảnh: ST

HOÀNG TUẤN CÔNG

Có lẽ, các nhà biên soạn từ điển cho rằng, “xẩu” chỉ là yếu tố láy âm của “xương”, nên đã xếp “xương xẩu” vào diện “từ láy” và giải nghĩa như sau:
Từ điển từ láy tiếng Việt” (Viện Ngôn ngữ - Hoàng Văn Hành chủ biên): XƯƠNG XẨU I. dt. Phần xương (nói khái quát); thường dùng để ví với cái khó làm, khó ăn. Trâu bò gầy, xương xẩu nhô cả ra. Phải nhận phần đất xương xẩu nhất. II. Gầy đến mức nhô cả xương ra. Người gầy gò, xương xẩu”.

23 thg 7, 2019

CHẠY TRỜI KHÔNG KHỎI NẮNG (Kỳ 20)

Ảnh minh hoạ sưu tầm

HOÀNG TUẤN PHỔ

Lệnh đến giờ ngủ đã ban truyền. Tất cả tù nhân rào rào nằm xuống, ai chỗ nào vào chỗ ấy. Lối kiến trúc thời xưa lòng nhà bề rộng hẹp, thường mỗi gian đình chỉ rộng độ 2m5 (trung bình), riêng gian giữa rộng nhất 3m trở lên. Gian số 1 và số 5 hẹp nhất. Hai hàng người nằm câu đầu vào nhau, nhưng không được nằm ngửa, phải nằm nghiêng, ôm lấy nhau đằng lưng, kiểu úp thìa, đôi chân co quắp cho đủ chỗ. Vẫn còn thừa người, ở giữa phải xếp thêm một hàng nằm ngang kiểu gắp cá. Còn tôi nằm đâu? Tôi phải nằm ôm lấy nồi vệ sinh của cả buồng mà ngủ.

21 thg 7, 2019

GIẺ CÙI TỐT MÃ

Chim giẻ cùi
Ảnh: ST

HOÀNG TUẤN CÔNG

-“Từ điển tục ngữ Việt” (Nguyễn Đức Dương) giải thích: “Giẻ cùi tốt mã Giẻ cùi (vốn chỉ được mỗi một ưu điểm là) tốt mã mà thôi. Hay dùng để nhắc mọi người là hãy chú trọng nhiều hơn tới thực chất, chứ đừng hoa mắt lên trước vẻ loè loẹt bề ngoài”.  
-Từ điển từ và ngữ Việt Nam” (GS Nguyễn Lân): “Tốt mã giẻ cùi • ng. (Giẻ cùi là một loài chim có bộ lông đẹp và có đuôi dài) ý nói: Chỉ tốt ở bề ngoài thôi <> Đừng tin vào lời nói ngọt xớt của mụ ta, chẳng qua chỉ là tốt mã giẻ cùi mà thôi”.

10 thg 7, 2019

MƠ HỒ TÍT BÁO

Một tít bài mắc lỗi diễn đạt
Ảnh: St
                      TRẦN SƠN


Kính thưa anh Tuấn Công.
Tôi là Trần Ngọc Sơn, một GV tiểu học ở tỉnh Phú Thọ. Tôi là một độc giả thường xuyên Thư Phòng của Anh. Tôi cũng có "bệnh" giống Anh là ham đọc sách, hay tìm hiểu, soi xét về chữ nghĩa (...). Hôm nay, tôi xin được gửi tới Anh một bài viết về các lỗi chữ nghĩa trên tít bài của báo. Tôi rất mong được Anh thẩm định và trao đổi, giúp tôi được mở mang kiến thức. Và, nếu được, Anh có thể đăng tải bài viết trên trang Blog Thư Phòng của Anh để độc giả cùng trao đổi.
Trân trọng cảm ơn Anh.
Kính thư: Trần Ngọc Sơn.

7 thg 7, 2019

NGHĨA CỦA “VẠC” TRONG “VỠ VẠC”

Vạc bờ
Ảnh: Báo Hưng Yên

HOÀNG TUẤN CÔNG

Từ điển từ láy tiếng Việt” (Viện ngôn ngữ-Hoàng Văn Hành chủ biên) thu thập và giải nghĩa: “VỠ VẠC đgt. (kgn.). Vỡ hoang, khai phá đất hoang (nói khái quát). Mỗi vụ trên mảnh đất mới vỡ vạc cũng thu được dăm tạ thóc. 2. Vỡ ra, bắt đầu hiểu ra, nhận biết ra (nói khái quát). Chịu khó dạy nó mấy buổi nó cũng đã vỡ vạc ra. Bây giờ đã vỡ vạc ra nhiều chứ trước kia thì mù tịt”.

29 thg 6, 2019

“LON” LÀ CÁI CHI MÀ KIÊNG ĐẾN VẬY?

Đồ hoạ sưu tầm

HOÀNG TUẤN CÔNG
Cục Văn hóa cơ sở (thuộc Bộ Văn hóa - thể thao và du lịch) có công văn gửi các địa phương yêu cầu chấn chỉnh hoạt động quảng cáo sản phẩm Coca - Cola có sử dụng cụm từ "mở lon Việt Nam", vì cho rằng việc sử dụng cụm từ này trong nội dung quảng cáo có dấu hiệu về hành vi quảng cáo thiếu thẩm mỹ, không phù hợp thuần phong mỹ tục Việt Nam.
Nhiều bạn đọc nhắn tin và gọi điện hỏi: Trong tiếng Việt “LON” có thể hiểu là những gì mà phải kiêng kỵ đến vậy? Có phải “LON” trong “bia LON” là từ vay mượn, du nhập theo loại đồ uống vốn không có ở Việt Nam?

8 thg 6, 2019

“VÀO RỪNG CHẲNG BIẾT LỐI RA…”

Lá và hoa vàng tâm
Ảnh: ST

HOÀNG TUẤN CÔNG

Một độc giả đề nghị: “Anh giải thích giùm câu: Vào rừng chẳng biết lối ra//Thấy cây núc nác tưởng là vàng tâm. Có một ông vừa giải thích rằng: vàng tâm là cây quý, còn núc nác là cây bỏ đi, “ý muốn nói lên sự thất vọng về một thứ gì đó. Tưởng là nó tốt nhưng buồn thay, đó là thứ rất tầm thường!” Ông ấy khuyên: nếu không làm được cây vàng tâm thì đừng làm cây núc nác.

31 thg 5, 2019

CHẠY TRỜI KHÔNG KHỎI NẮNG (Kỳ 19)


HOÀNG TUẤN PHỔ
           (Kỳ 19)

Khoảng hai tuần sau “cuộc truy tìm kho súng đạn”, anh công an Lưỡng đến nhà bảo tôi: 
-“Tỉnh có lệnh gọi mi lên có việc gấp, mi phải sửa soạn sáng mai tau dẫn đi sớm!”. 
-Tôi hỏi: “Không có giấy gọi hay sao?” 
-Anh Lưỡng trả lời: “Tau chỉ biết làm theo lệnh của ông Lời, chớ có hỏi đến giấy má mà thêm lôi thôi cò kéo, để ông nớ phạt lây đến tau!” 
Tôi nghĩ: lần trước gọi mình lên huyện cũng không thấy giấy má gì. Chắc lại chuyện súng đạn? Đến bố tôi còn không biết súng đạn cất giấu ở đâu nữa là tôi! Tôi đành cứ phải “Dĩ bất biến ứng vạn biến!”

25 thg 5, 2019

“HÙNG HỔ” LÀ GÌ?


Hùng hổ tương đấu
Ảnh: St

        HOÀNG TUẤN CÔNG 


 Một số nhà biên soạn từ điển xếp “hùng hổ” vào diện “từ láy”:

-Từ điển từ láy tiếng Việt (Viện Ngôn ngữ học-Hoàng Văn Hành chủ biên): “HÙNG HỔ tt. Tỏ ra hung hăng, dữ tợn, đầy vẻ đe doạ. Quân địch hùng hổ tiến vào làng. Điệu bộ hùng hổ. “Lý trưởng hùng hổ chĩa bàn tay vào mặt chị Dậu” (Ngô Tất Tố)”.

11 thg 5, 2019

MẤY AI BIẾT LÚA VON, MẤY AI BIẾT CON HƯ

Lúa von
Ảnh: ST

HOÀNG TUẤN CÔNG

-Sách “Giải nghĩa tục ngữ Việt Nam” (Nguyễn Cừ) giải thích: “Mấy ai biết lúa ven (sic), mấy ai biết con hư: Lúa nhà mình, con nhà mình làm sao mà xấu mà hư được, phê phán tâm lý luôn cho mình là nhất, quá thương con mà không biết con hư”.
-“Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam” (GS. Nguyễn Lân) đưa ra dị bản: “Mấy ai biết lúa gon, mấy ai biết con ác (Lúa gon là lúa lẫn vào những cỏ dại) Ý nói: Nhiều cha mẹ vì quá nuông con nên không thấy được những mầm xấu ở con”.

20 thg 4, 2019

SAO LẠI GỌI LÀ “BỆ VỆ”?

Lính túc vệ "bệ vệ" bên vua Duy Tân

HOÀNG TUẤN CÔNG

“Bệ vệ” nghĩa là gì?
-“Việt Nam tự điển” (Lê Văn Đức biên soạn-Lê Ngọc Trụ hiệu đính) giải nghĩa: “bệ vệ • tt. Oai-vệ, nghiêm-nghị, dáng người cố tỏ ra bậc đáng kính: Trông bệ-vệ như ông hoàng”.
-“Việt Nam tự điển (Hội Khai Tiến Đức): “bệ-vệ • Oai-vệ, nghiêm-trang, làm ra bộ dạng bậc đại-nhân”. 

13 thg 4, 2019

GIÀ LỪA MẮC DƯA THỐI

              Con lừa
                              Ảnh: ST

HOÀNG TUẤN CÔNG


Tục ngữ Việt Nam có câu “Già lừa mắc dưa thối”. Tuy nhiên, phần lớn các nhà nghiên cứu và biên soạn từ điển lại thu thập dị bản “Già lừa ĐẠP dưa thối” và giải thích:
-“Từ điển thành ngữ tục ngữ Việt Nam” (Nhóm Vũ Dung): “Già lừa đạp dưa thối (lừa: thú cùng họ với ngựa, nhưng nhỏ hơn, tai dài, nuôi để kéo xe). Già rồi, khôn ngoan lọc lõi mà còn mắc phải việc dại dột (ví như con lừa già mà dẫm phải dưa thối)”.
-“Thành ngữ tục ngữ Việt Nam” (Nhóm Bùi Hạnh Cẩn): “Già lừa đạp dưa thối (già lừa: con lừa già): Già rồi, tưởng khôn ngoan lọc lõi mà còn mắc phải việc dại dột”.

30 thg 3, 2019

“BÌNH BỒNG” CÓ PHẢI TỪ LÁY?

Cảnh bèo lưu lạc, trôi nổi trên mặt nước
Ảnh: St
HOÀNG TUẤN CÔNG

Sách “Từ điển từ láy tiếng Việt” (Viện Ngôn ngữ học - Hoàng Văn Hành chủ biên - NXB Khoa học xã hội, 2011), thu thập và giải nghĩa các từ láy:
- “BÌNH BỒNG đgt. (id.). Như bồng bềnh. “Họ vẫn bình bồng trên mặt nước” (VHọc)”.
- “BỒNG BỀNH tt. 1. Ở trạng thái trôi nổi khi lên khi xuống nhẹ nhàng trên mặt nước. Đám bèo trôi bềnh bồng trên sông. “Cánh bèo nhỏ bồng bềnh trên sóng biếc”. 2. Trông như những cục bông xốp nhẹ, có thể thổi bay lên. Mái tóc bồng bềnh. “Bản em trên chóp núi, Sớm bồng bềnh trong mây” (Nguyễn Thái Vận)”.

CHIỀU NHƯ CHIỀU VONG

Cô gái được cho là bị "vong nhập" ở chùa Ba Vàng
(Ảnh cắt từ clip)
HOÀNG TUẤN CÔNG

Tìm kiếm trên Google, người ta bắt gặp nhiều tít bài vận dụng câu thành ngữ như: “Muốn chồng ‘chiều như chiều vong’ phụ nữ hãy làm điều này mỗi tối” (phunutoday); “Chuyện ngược đời: Chủ nhà chiều osin như “chiều vong” (giaoduc.net.vn); “Chiều Nhân viên như chiều vong mà cũng không xong”… Điển hình, bài “Mang thai hộ: Chiều như chiều vong” (antg.cand.vn) có đoạn:

17 thg 3, 2019

AI ĐÃ “TÌM RA” TỪ “PHỒN SINH”?

"Nhà thơ Nguyễn Linh Khiếu phản đối việc đạo thơ
 sau nhiều lần “xuê xoa” và bị kiện ngược"
                                Ảnh + chú thích:  Báo Tiền Phong
HOÀNG TUẤN CÔNG

Trong bài “Nạnđạo thơ: Không dung túng cho việc vừa ăn cắp vừa la làng” (Hạnh Đỗ - Báo Tiền Phong - 3/3/2019), Nhà thơ, PGS.TS. Nguyễn Linh Khiếu cho biết, ông từng nhiều lần “bỏ qua” mỗi khi bị đạo thơ, nhưng rồi “phải nếm một “quả đắng” cho thói xuê xoa này”, nên lần này phải lên tiếng để tránh sự ăn cắp trơ trẽn” đó. Cụ thể, vào năm 1995, ông là người “tìm ra” từ “phồn sinh”, thế mà đến “năm 2018 vừa rồi, tác giả Đinh Sỹ Minh lấy tên “Phồn sinh” đặt cho một tập thơ của mình”:

5 thg 2, 2019

PHIẾM HỢI PHÚ



Tranh của Hoạ sĩ Trần  Viết Thục (Thuc Tran)
         CAO BỒI GIÀ

Nhân đón năm mới Kỉ Hợi, bác Cao Bồi Già gửi cho Tuấn Công Thư Phòng bài "Phiếm Hợi Phú", xin trân trọng giới thiệu tới bạn đọc, và cảm ơn bác Cao Bồi Già đã chia sẻ.




22 thg 1, 2019

THANH VÔ TIỀN, NGHỆ VÔ HẬU

Cửa Tả thành Thanh Hoá.
Ảnh: ST
HOÀNG TUẤN CÔNG


Trong bài “Về câu nói Thanh vô tiền, Nghệ vô hậu” (Tạp chí Văn hoá Nghệ An-2011), tác giả Nguyễn Trung Hiền nhận định: Người ghi câu nói “Thanh vô tiền, Nghệ vô hậu” đầu tiên có thể là H.Le Brơtông (H.Le Breton). Ông đã ghi câu nói trên vào “An Tĩnh cổ lục” (Le vieux An Tĩnh) xuất bản năm 1936 ở Tập san “Đô Thành hiếu cổ”.
Quả tình, trong An Tĩnh cổ lục”, Hyppolyte Le Breton có chép:

19 thg 1, 2019

GIỐNG LỢN QUÝ TRONG TRANH ĐÔNG HỒ

Lợn ăn cây ráy
                     Tranh Đông Hồ (St)
HOÀNG TUẤN CÔNG

Trong bài “Gà lợn trong tranh Đông Hồ”, Nhà nghiên cứu tranh dân gian Phùng Hồng Kổn cho rằng, “nguyên mẫu” con lợn trong dòng tranh này là “lợn ỉ thuần chủng”. Ông viết:

18 thg 1, 2019

CON LỢN VÀ CHỮ “GIA”

Lợn độc
Tranh Kim Hoàng
HOÀNG TUẤN CÔNG

Trong Hán tự, chữ “gia” , thuộc chữ Hội ý. Hình chữ trong Giáp cốt văn Kim văn thấy rõ một nếp nhà có mái và cột (sau này phát triển thành bộ “miên” ), bên trong có con lợn đang nằm (sau thành bộ “thỉ” ). Sách “Tìm về cội nguồn chữ Hán” (Lý Lạc Nghị - Jim Waters, NXB Thế giới - 1997) giải thích: “Ngày xưa vương công quý tộc sau khi chết, đều có xây miếu để thường xuyên thờ cúng; thường dân không có miếu, thường bày con lợn dưới hiên nhà để cúng bái, đó là gia (nhà). Sau đó, nghĩa được mở rộng là trú sở (nhà ở) v.v”.