3 thg 7, 2022

Về một số câu tục ngữ “chưa rõ nghĩa” trong “Từ điển tục ngữ Việt” ( Kỳ 1)

 

Minh hoạ tục ngữ "Thành môn thất 
hoả, ương cập trì ngư".
Tranh: ST
                           HOÀNG TUẤN CÔNG    

    Thông thường, khi biên soạn từ điển thì tất cả từ ngữ thu thập sẽ được soạn giả giải thích. Tuy nhiên, trong Từ điển tục ngữ Việt (NXB Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh - 2010) có một số câu Nguyễn Đức Dương thu thập, nhưng xếp vào diện “chưa rõ nghĩa”. Cách làm này thể hiện sự thận trọng, và cũng có cái hay là lưu ý cho độc giả và các nhà nghiên cứu về những vấn đề còn bỏ ngỏ. Sau đây chúng tôi xin đưa ra cách giải thích về những câu “chưa rõ nghĩa” này (phần gạch đầu dòng sau số mục, đặt trong ngoặc kép là nguyên văn của Từ điển tục ngữ Việt)

1-“Ao cá lửa thành Chưa rõ nghĩa”.

         Thực ra đây chính là dị bản của Cháy thành vạ lây, mà chính Nguyễn Đức Dương đã thu thập và giải thích là: “Thành hễ bị cháy thì (những kẻ sống quanh đó) tất bị vạ lây. Hay dùng để than phiền về tình cảnh hay chịu vạ lây khi phải sống gần các cuộc giao tranh lớn”.

         Ao cá lửa thành”, "Lửa thành ao cá", hay Thành môn ngư ương 城門魚殃 chính là dạng rút gọn của Thành môn thất hoả, ương cập trì ngư 城門失火,殃及池魚.

Tương truyền, thời Xuân Thu, Trì Trọng Ngư người nước Tống, nhà ở gần cửa thành. Một lần thành bị hoả tai, lửa lan rộng sang nhà họ Trì, khiến Trọng Ngư bị chết cháy. Và Trì Ngư ở đây là Trì Trọng Ngư. Lại có thuyết cho rằng trì ngư 池魚 đơn giản chỉ có nghĩa là ao cá (trì = ao; ngư = cá). Tống thành bị hoả hoạn, người ta đổ xô đi múc nước chữa cháy, khiến cho ao chuôm gần đó bị cạn, cá tôm chết khô cả. Về sau, câu Thành môn ngư ương, hay Thành môn thất hoả, ương cập trì ngư, ví với trường hợp không có liên quan gì đến sự việc nhưng lại phải chịu hoạ hại [Tham khảo Hán ngữ đại từ điển, nguyên văn: 城門失火,殃及池魚: 相傳 春秋 , 宋國 池仲魚 所居近城門,一次城門失火,延及其家, 仲魚 燒死. 城門失火,因汲水滅火,池水乾涸,魚皆枯死 […] 後用以比無端受牽連而遭禍害].

Trong hai dị bản trên, thì dị bản “trì ngư” với nghĩa “ao cá” đắt hơn. Bởi vì nhà ở gần cửa thành, lửa cháy lan sang, thì việc Trọng Ngư bị chết cháy là chuyện thường. Trong khi cá ở dưới nước, lửa không hề lan tới mà vẫn bị "vạ lây" mới đúng là chuyện tai bay vạ gió. 

2-“Áo chân cáy, váy chân sứa Chưa rõ nghĩa”.

         Cáy là sinh vật nước lợ, thuộc họ Cua. Do chân cáy có nhiều lông và răng cưa nhỏ, gợi đến hình ảnh rách tướp, xác xơ. Còn sứa là một sinh vật biển, thân như ô như lọng, chân sứa giống tua mực xỏ xuống loà xoà. Áo chân cáy là áo có gấu rách tướp trông như chân cáy; váy chân sứa là váy có gấu rách tả tơi, trông như những cái chân con sứa. Áo chân cáy, váy chân sứa ý chỉ áo váy rách rưới tả tơi.

3-“Ăn có chỗ, đỗ [?] có nơi Chưa rõ nghĩa.”.

         Theo ký hiệu đánh dấu [?] biểu thị nghi ngờ, thắc mắc, có lẽ soạn giả không hiểu “đỗ” có nghĩa là gì, dẫn đến cả câu “chưa rõ nghĩa”.

         Thực ra “đỗ” ở đây là tạm, tạm thời dừng lại (đồng nghĩa với đậu), như Ăn nhờ ở đỗ = Ăn nhờ ở đậu, Ăn gửi nằm nhờ.

Câu Ăn có chỗ, đỗ có nơi (dị bản Ăn chọn nơi, chơi chọn bạn) có nghĩa phải biết chọn bạn mà chơi, không nên buông tuồng bừa bãi, bạ đâu xâu đó.

Tham khảo: Câu Ăn có chỗ, đỗ có nơi đồng nghĩa với Ăn có sở, ở có nơi. Đáng chú ý là với câu sau, Nguyễn Đức Dương cũng đã nhầm lẫn, không hiểu đúng nghĩa của từ sở nên giải thích sai: Ăn có sở; ở có nơiĂn thì nên chọn những thứ hợp sở thích mà ăn; ở thì nên chọn những nơi thuần hậu mà cư ngụ;  sở dt. Sở thích [nói tắt]”.

4-“Ăn của rừng rưng rưng nước mắt Chưa rõ nghĩa”.

         Xưa kia, mỗi khi đói kém người ta lại lặn lội lên rừng để chạy đói, khai thác từ ngọn nứa tép cho đến cây gỗ quý. Tuy nhiên, chốn rừng núi “ma thiêng nước độc” với những rắn rết, thú dữ, đá lở đất nhào, lũ cuốn lũ quét…đã lấy đi nước mắt và sinh mạng của bao người. Người ta cho rằng, đó là thần rừng nổi giận, bắt con người phải trả giá vì đã “ăn của rừng”.

         Câu “Ăn của rừng rưng rưng nước mắt” được sử dụng khá rộng rãi trên báo chí, đặc biệt là khi nói về những thảm hoạ lũ lụt, sạt lở xảy ra do con người khai thác, tàn phá rừng bừa bãi. Ví dụ: “Ăn của rừng rưng rưng nước mắt. Nước mắt kẻ “ăn rừng”, sớm muộn, có thể “rưng rưng” hay chẳng kịp “rưng rưng”. Nhưng, người dân miền núi, người dân vùng lũ vẫn chưa thôi vừa cạn dòng nước mắt, nước mắt lại lã chã tuôn rơi” (Uông Ngọc Dậu – báo Vietnamnet-2017); hayĂn của rừng rưng rưng nước mắt”, âu đó cũng những gì chúng ta đã và đang phải trả giá cho lòng tham của mình khi quyết đánh đổi, tàn sát thiên nhiên trong suốt nhiều năm để đổi lấy tiền.” (Nam Hoàng – báo Công Lý – 2018).

    Như vậy, câu tục ngữ "Ăn của rừng rưng rưng nước mắt", không khó hiểu đến mức phải xếp vào diện "chưa rõ nghĩa".

(còn tiếp)

                              HTC (trích bản thảo "Viết lúc nông nhàn" sắp xuất bản)

2 nhận xét:

  1. Cảm ơn nhà nghiên cứu Hoàng Tuấn Công

    Trả lờiXóa
  2. “Ăn có chỗ, đỗ có nơi”
    “Đỗ” là đỗ xe, miền nam nói là đậu xe.
    Vậy câu này được hiểu là: ăn đúng chỗ, đỗ đúng nơi.
    Tức là làm gì thì cũng trông trước, trông sau, đừng để việc mình làm trở nên lố lăng.
    Thí dụ như, sáng đi làm trễ, cầm theo đồ ăn sáng, ngồi ăn tại bàn làm việc, khó coi lắm, nói chi ăn húp sột sạc, nhai nhóp nhép.

    Trả lờiXóa